Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá kết quả can thiệp vận động cưỡng bức bên liệt cường độ thấp trong phục hồi chức năng chi trên ở người bệnh nhồi máu não giai đoạn cấp tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ năm 2023

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá kết quả can thiệp vận động cưỡng bức bên liệt cường độ thấp trong phục hồi chức năng chi trên ở người bệnh nhồi máu não giai đoạn cấp tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ năm 2023
Tác giả
Nguyễn Huy Ngọc; Nguyễn Quang Ân; Nguyễn Thị Minh Thanh
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
249-253
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá kết quả can thiệp vận động cưỡng bức bên liệt cường độ thấp trong phục hồi chức năng chi trên ở người bệnh nhồi máu não giai đoạn cấp tại Trung tâm đột quỵ bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ từ tháng 01 đến tháng 08 năm 2023. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, có can thiệp, so sánh trước và sau điều trị, 52 bệnh nhân nhồi máu não giai đoạn cấp điều trị nội trú tại Trung tâm đột quỵ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ từ tháng 01/2023 đến tháng 08/2023. Kết quả: Tuổi trung bình là 69,46 ± 10,28 tuổi. Tỷ lệ nam và nữ là 1,48/1. Thời gian trung bình từ lúc khởi phát tới lúc được can thiệp kỹ thuật vận động cưỡng bức bên liệt (CIMT) cường độ thấp là 4,69 ± 3,11 ngày. Vị trí tổn thương não chủ yếu là hệ tuần hoàn não trước chiếm 71,15%. Tỷ lệ đột quỵ não mức độ trung bình (NIHSS 8-15) chiếm 75%. Điểm lượng giá chức năng vận động chi trên bằng nhật kí hoạt động vận động (MAL) trung bình trước và sau can thiệp lần lượt là: mức độ thường xuyên sử dụng (AOU) là 1,28 ± 0,27 và 2,67 ± 0,56; chất lượng thực hiện cử động (QOM) là 1,39 ± 0,30 và 2,85 ± 0,52. Điểm lượng giá chức năng vận động chi trên (ARAT) trung bình trước và sau can thiệp là 23,63 ± 8,46 và 43,50 ± 8,52. Điểm lượng giá chức năng sinh hoạt hàng ngày (Barthel) trung bình trước và sau can thiệp là 30,67 ± 8,46 và 77,98 ± 12,53. Kết luận: Bệnh nhân nhồi máu não cấp được can thiệp CIMT cường độ thấp trong nghiên cứu của chúng tôi có tuổi cao, đa số là đột quỵ não mức độ trung bình và tổn thương hệ tuần hoàn não trước, tỷ lệ cải thiện chức năng chi trên tăng ở nhóm sau can thiệp so với nhóm trước can thiệp.

Abstract

Evaluating the results of low intensity constraint induced movement therapy (CIMT) on the paralyzed side in upper limb rehabilitation in patients with acute cerebral infarction at the Stroke Center of Phu Tho Provincial General Hospital from January to August, 2023. Materials and methods: Prospective study, with intervention, comparing before and after treatment, 52 patients with acute ischemic stroke treated as inpatients at the Stroke Center of Phu Tho Provincial General Hospital from January 2023 to August 2023. Result: The average age was 69.46 ± 10.28 years old. The ratio of men and women is 1.48/1. The average time from onset to intervention with low-intensity CIMT on the paralyzed side was 4.69 ± 3.11 days. Cerebral infarction of the anterior cerebral circulatory system, accounting for 71.15%. The rate of moderate stroke (NIHSS 8-15) is 75%. The average score for assessing upper limb motor function using the motor activity diary (MAL) before and after intervention is: frequency of use (AOU) is 1.28 ± 0.27 and 2, respectively. 67 ± 0.56; quality of movement execution (QOM) was 1.39 ± 0.30 and 2.85 ± 0.52. The average upper limb motor function assessment score (ARAT) before and after intervention was 23.63 ± 8.46 and 43.50 ± 8.52. The average Barthel score before and after intervention was 30.67 ± 8.46 and 77.98 ± 12.53. Conclusion: Patients with acute ischemic stroke undergoing low-intensity CIMT intervention in our study are older, most have moderate stroke and damage to the anterior cerebral circulatory system. The rate of improvement in upper limb function increases in the latter group intervention compared to the pre-intervention group.