
Đánh giá kết quả của phương pháp đặt nội khí quản nhanh theo trình tự so với phương pháp đặt nội khí quản không dùng thuốc giãn cơ. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 63 tại Trung tâm cấp cứu A9 Bệnh viện Bạch Mai được đặt nội khí quản theo phương pháp nhanh theo trình tự và không dùng thuốc giãn cơ. Kết quả: Nhóm bệnh lý phổ biến nhất là tiêu hóa (33%) và hô hấp (31%). Tỷ lệ đặt nội khí quản thành công lần đầu theo phương pháp RSI (88%) cao hơn so với non – RSI (67%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Thời gian đặt nội khí quản của nhóm đặt theo phương pháp RSI (76 giây) ngắn hơn so với nhóm non – RSI (163 giây), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tỷ lệ tụt huyết áp trong quá trình đặt nội khí quản ở nhóm non – RSI là cao hơn so với nhóm RSI và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Các biến cố khác tổn thương miệng, họng, đặt nội khí quản quá sâu, đặt nội khí quản vào thực quản, trào ngược, nôn, rách cuff, tụt SpO2 trong quá trình thực hiện có sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm (p>0,05). Kết luận: Phương pháp đặt nội khí quản nhanh theo trình tự với ketamine và rocuronium áp dụng với những bệnh nhân cấp cứu không có yếu tố tiên lượng đường thở khó giảm thời gian, tăng tỷ lệ thành công lần đầu và không làm tăng các biến cố trong quá trình thực hiện so với những bệnh nhân không dùng giãn cơ.
Compare between rapid sequence intubation and intubation without using neuromuscular blocking drugs. Method: Descriptive study on 63 patients in Emergency Center, Bach Mai Hospital, who received tracheal intubation in two methods rapid sequence intubation and intubation without using neuromuscular blocking drugs. Results: The most popular diseases were digestive (33%) and respiratory diseases (31%). Intubations with RSI had a higher success rate on the first attempt compared to those with non-RSI (88 vs 67%,p < 0,05). It took less time to perform intubation with RSI compared to those with non–RSI (76s vs 163s, p<0,05). Hypotension rate in non–RSI group was higher than that in RSI group (p<0,05). Other complications such as mouth, throat trauma, esophageal intubation, main stem bronchial intubation, regurgitation, vomiting, cuff failure and hypoxemia in procedure did not have statistically significant difference between two group RSI and non – RSI (p>0,05). Conclusion: Rapid sequence intubation method with ketamine and rocuronium in emergency patients, who do not have difficult airway, associated with shorter time to perform endotracheal intubation, higher success rate on the first attempt but not with the risk of complications compare with intubation without neuromuscular blocking drugs.
- Đăng nhập để gửi ý kiến