Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá kết quả phối hợp chương trình phục hồi chức năng hô hấp cho người bệnh phẫu thuật nội soi cắt thực quản điều trị ung thư thực quản

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá kết quả phối hợp chương trình phục hồi chức năng hô hấp cho người bệnh phẫu thuật nội soi cắt thực quản điều trị ung thư thực quản
Tác giả
Phạm Văn Hiệp; Nguyễn Anh Tuấn; Nguyễn Cường Thịnh
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
03
Trang bắt đầu
109-115
ISSN
1859-2872
Tóm tắt

Đánh giá kết quả phối hợp chương trình phục hồi chức năng hô hấp (PHCNHH) cho bệnh nhân phẫu thuật nội soi cắt thực quản điều trị ung thư thực quản. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu mô tả có can thiệp bao gồm 69 bệnh nhân (BN) được phẫu thuật cắt thực quản từ tháng 3/2019 tới tháng 3/2022 được chia thành 2 nhóm: Nhóm có phục hồi chức năng hô hấp gồm 31 bệnh nhân và nhóm không phục hồi chức năng hô hấp gồm 38 bệnh nhân. Các bệnh nhân trong nhóm phục hồi chức năng hô hấp được tiến hành trong ít nhất 3 ngày. Sau khi tiến hành phẫu thuật nội soi cắt thực quản, các biến chứng hô hấp sau phẫu thuật được ghi nhận và đánh giá theo phân loại Clavien-Dindo. Các dữ liệu được thu thập và xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Kết quả: Tuổi trung bình ở nhóm có phục hồi chức năng hô hấp cao hơn so với nhóm không phục hồi chức năng hô hấp. Không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê về tiền sử hút thuốc lá, uống rượu, vị trí khối u, giai đoạn bệnh, toàn trạng bệnh nhân, các bệnh lý kết hợp, điều trị hoá xạ trị trước phẫu thuật và các thông số SVC, FVC và FEV1. Nhóm có phục hồi chức năng hô hấp: Thời gian phẫu thuật trung bình ngắn hơn (283,39 phút so với 320,53 phút), số lượng hạch vét được cao hơn (27,61 hạch so với 20,08 hạch), thời gian trung bình đặt ống nội khí quản (NKQ) ngắn hơn (0,26 ngày so với 0,58 ngày), thời gian nằm ICU ngắn hơn (0,29 ngày so với 0,66 ngày), biến chứng viêm phổi thấp hơn (6,5% so với 21,1%), mức độ biến chứng trầm trọng thấp hơn (Clavien-Dindo II là 0% so với 34,6%). Tuy nhiên, thời gian nằm viện và tỷ lệ biến chứng hô hấp chung vẫn chưa có sự khác nhau có ý nghĩa giữa 2 nhóm. Kết luận: Chương trình phục hồi chức năng hô hấp trước phẫu thuật là biện pháp an toàn, khả thi giúp làm giảm tỷ lệ viêm phổi, thời gian đặt ống nội khí quản, thời gian nằm ICU sau phẫu thuật nội soi cắt thực quản điều trị ung thư thực quản

Abstract

To evaluate the outcomes of the pulmonary rehabilitation program before thoracoscopic esophagectomy. Subject and method: A retrospective, interventional study including 69 patients (patients) who underwent esophagectomy from March 2019 to March 2022, divided into 2 groups: The group with a rehabilitation program including 31 patients and the non-rehabilitation group included 38 patients. The patients in the rehabilitation group were carried out for at least 3 days, while the remaining group of patients did not. After thoracoscopic esophagectomy, postoperative complications were recorded and evaluated according to the Clavien-Dindo classification. The data were collected and processed using SPSS 16.0 software. Result: The mean age in the group with rehabilitation was higher than that in the non-rehabilitation group. There were no statistically significant differences in the history of smoking, tumor location, stage of disease, patient's general condition, comorbidities, preoperative chemoradiation therapy, SVC, FVC, and FEV1 parameters. The group with rehabilitation had: A shorter mean operative time (283.39 minutes compared with 320.53 minutes), a higher number of lymph nodes removed (27.61 lymph nodes compared with 20.08 nodes), a shorter mean time of intubation (0.26 days versus 0.58 days), the shorter ICU stay (0.29 days versus 0.66 days), the lower rate of pneumonia (6.5% versus 21.1%), and the lower rate of severe complications (ClavienDindo II was 0% versus 34.6%). However, there was no significant difference between the 2 groups in the length of hospital stay and the overall pulmonary complications. Conclusion: Preoperative pulmonary rehabilitation program is a safe and feasible method to help reduce the incidence of pneumonia, intubation time, and ICU stay after thoracoscopic esophagectomy for esophageal cancer.