Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn đường tiết niệu qua mẫu nước tiểu bể thận trong phẫu thuật tán sỏi thận qua da

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn đường tiết niệu qua mẫu nước tiểu bể thận trong phẫu thuật tán sỏi thận qua da
Tác giả
Nguyễn Tiến Đạt; Ngô Xuân Thái; Đỗ Anh Toàn; Nguyễn Đạo Thuấn; Nguyễn Ngọc Thái
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
1-CD1
Trang bắt đầu
150-156
ISSN
1859-1779
Tóm tắt

Đánh giá mẫu nước tiểu bể thận cung cấp nhưng thông tin giá trị về vi khuẩn học, hỗ trợ quá trình điều trị nhiễm khuẩn đường tiết niệu (NKĐTN), giảm thiểu biến chứng nặng như nhiễm khuẩn huyết và choáng nhiễm khuẩn sau tán sỏi thận qua da. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định tỷ lệ có NKĐTN qua đánh giá mẫu nước tiểu bể thận, chủng vi khuẩn và độ nhạy cảm kháng sinh, xác định tỷ lệ có biến chứng nhiễm khuẩn huyết và choáng nhiễm khuẩn sau tán sỏi thận qua da. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tổng cộng 69 mẫu thỏa tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu. Tất cả các mẫu đều được tiến hành lấy nước tiểu ở 2 thời điểm lúc chọc dò vào đài bể thận và sau tán sỏi từ 15 – 30 phút. Các mẫu nước tiểu này được đánh giá qua xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu, soi tươi – nhuộm gram, nuôi cấy vi khuẩn và xác định độ nhạy cảm với kháng sinh. Ngoài ra, thu thập những biến số trước, trong và sau phẫu thuật liên quan đến tình trạng NKĐTN. Kết quả: Tỷ lệ có NKĐTN qua đánh giá nước tiểu bể thận là 31,88%, trong đó chủ yếu là vi khuẩn gram âm (76,19%). Chủng vi khuẩn phân lập được: E.coli chiếm đa số (46,15%), kế đến là Enterobacter cloacae, Proteus mirabilis, Staphylococcus aureus, Enterococcus faecalis và vi nấm. Nghiên cứu ghi nhận 1 trường hợp nhiễm khuẩn huyết, không ghi nhân biến chứng choáng choáng nhiễm khuẩn và tử vong. Kết luận: soi tươi – nhuộm gram và cấy nước tiểu bể thận có giá trị cao trong đánh giá tình trạng NKĐTN ở những bệnh nhân có chỉ định tán sỏi thận qua da. Đây là những khảo sát nên được thực hiện nhằm phát hiện sớm NKĐTN và giảm thiểu biến chứng nhiễm khuẩn huyết và choáng nhiễm khuẩn.