
Nghiên cứu nhằm đánh giá bệnh lý trào ngược họng thanh quản và rối loạn nuốt trên bệnh nhân khàn tiếng bằng bảng câu hỏi RSI, RFS và EAT – 10. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Nghiên cứu được thực hiện trên những bệnh nhân khàn tiếng đến khám tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ 1 tháng 2 năm 2020 đến 31 tháng 7 năm 2020. Kết quả Có 78 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, trong đó có 12,8 % bệnh nhân có điểm RSI từ 13 điểm trở lên. Triệu chứng khảo sát bằng RSI thường gặp nhất là phải tằng hắng thường xuyên (79,2%) và có chất nhầy trong họng hoặc chất nhầy từ mũi xuống họng (73,1%). Ở nhóm bệnh nhân có RSI từ 13 điềm trở lên, triệu chứng than phiền nhiều nhất là tằng hắng hoặc khạc nhổ (90%), cảm giác vướng đàm hoặc nghẹn ở cổ (90%), có chất nhầy trong họng hoặc chất nhầy từ mũi xuống họng (90%) và ho khó chịu (90%). Có 18 bệnh nhân (23,1%) có điểm RFS từ 7 điểm trở lên. Đặc điểm thường gặp nhất trên nội soi ở nhóm bệnh nhân này là phù nề dây thanh (100%) và phù nề thanh quản lan tỏa (94,4%), sung huyết thanh quản (72,2%) và quá mép sau (66,7%). Có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa những bệnh nhân có triệu chứng nghẹn ở cổ và điểm RFS ≥7 (p <0,001). Những bệnh nhân khàn tiếng có biểu hiện trào ngược họng thanh quản trên lâm sàng (dựa vào điểm RSI từ 13 hoặc RFS từ 7) là 20 bệnh nhân (25,6%). Có 17,9% bệnh nhân khàn tiếng có biểu hiện rối loạn nuốt có điểm EAT – 10 từ 3 điểm trở lên. Trong đó, 13 bệnh nhân trong số này có biểu hiện trào ngược họng thanh quản (92,9%). Ở những bệnh nhân có biểu hiện rối loạn nuốt và trào ngược họng thanh quản, than phiền về nuốt thường gặp nhất là nuốt đau (38,5%). Kết luận Thang điểm RSI, RFS và bảng câu ỏi EAT – 10 có thể sử dụng như những thang đo trên lâm sàng trong đánh giá trào ngược họng thanh quản và rối loạn nuốt.
- Đăng nhập để gửi ý kiến