Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá tỷ lệ và xác định yếu tố nguy cơ của viêm màng não, não thất sau phẫu thuật sọ não tại khoa Hồi sức Cấp cứu - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá tỷ lệ và xác định yếu tố nguy cơ của viêm màng não, não thất sau phẫu thuật sọ não tại khoa Hồi sức Cấp cứu - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ
Tác giả
Đinh Ngọc Hưng; Nguyễn Đăng Tố; Trần Văn Giang
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1B
Trang bắt đầu
146-151
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Viêm màng não-não thất sau phẫu thuật sọ não là một tình trạng bệnh lý nặng, tỷ lệ tử vong cao, di chứng thần kinh nặng nề dẫn đến kéo dài thời gian nằm viện. Mục tiêu: Đánh giá yếu tố nguy cơ xuất hiện viêm màng não-não thất sau phẫu thuật sọ não. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu 179 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật mở sọ, có 36 bệnh nhân xuất hiện viêm màng não-não thất, so sánh yếu tố liên quan giữa 2 nhóm. Kết quả: Có 179 bệnh nhân được lựa chọn, trong đó 36 bệnh nhân xuất hiện viêm màng não-não thất, tỷ lệ 20,1%. Không có sự khác biệt về giới và tuổi giữa 2 nhóm. Nhóm xuất hiện viêm màng não có các đặc điểm khác biệt: phẫu thuật do tai nạn giao thông (38,9%) và đột quỵ chảy máu não (38,9%), tổn thương chủ đạo là máu tụ nhu mô não (52,8%) và máu tụ dưới màng cứng (41,7%), có điểm Glasgow trước phẫu thuật thấp <9 điểm (77,8%), có thể tích khối máu tụ lớn > 60 cm3 (97,7%), tỷ lệ phẫu thuật cấp cứu, tỷ lệ thở máy trước phẫu thuật cao hơn (p < 0,05). Yếu tố nguy cơ trong hồi quy logistic đơn biến là: Glasgow < 9 điểm, thở máy trước phẫu thuật, phẫu thuật cấp cứu, thể tích khối máu tụ > 60 cm3; trong hồi quy logistic đa biến là: Glasgow < 9 điểm và thể tích khối máu tụ > 60 cm3 (p < 0,05). Kết luận: Viêm màng não-não thất sau phẫu thuật sọ não tại khoa hồi sức chiếm tỷ lệ cao, đánh giá các yếu tố nguy cơ giúp chẩn đoán và điều trị sớm nhằm cải thiện kết quả điều trị.

Abstract

Post-neurosurgical meningitis and ventriculitis are serious medical conditions with a high mortality rate, severe neurological sequelae, and leading to prolonged hospital stays. Objective: Evaluate risk factors for post-neurosurgical meningitis and ventriculitis. Subjects and methods: A retrospective study of 179 patients undergoing craniotomy, 36 developed meningitis or ventriculitis, compared related factors between the two groups. Results: There were 179 patients selected, of which 36 patients had meningitis, a rate of 20.1%. There were no differences in gender and age between the two groups. The meningitis group has different characteristics: surgery due to traffic accidents (38.9%) and hemorrhagic stroke (38.9%), the primary injury being brain parenchymal hematoma (52.8%) and subdural hematoma (41.7%), with low preoperative Glasgow score < 9 points (77.8%), with large hematoma volume > 60cm3 (97.7%), The rate of emergency surgery and preoperative mechanical ventilation were higher (p < 0.05). Risk factors in univariate logistic regression are: Glasgow < 9 points, preoperative mechanical ventilation, emergency surgery, hematoma volume > 60 cm3; in multivariable logistic regression are: Glasgow < 9 points and hematoma volume > 60 cm3 (p < 0.05). Conclusion: Post-neurosurgical meningitis and ventriculitis in the intensive care unit account for a high rate. Assessing risk factors helps early diagnosis and treatment to improve treatment results.