Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá vai trò của phục hồi chức năng nuốt cho bệnh nhân sau phẫu thuật cắt ung thư lưỡi, ung thư sàn miệng, ung thư lưỡi – sàn miệng

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá vai trò của phục hồi chức năng nuốt cho bệnh nhân sau phẫu thuật cắt ung thư lưỡi, ung thư sàn miệng, ung thư lưỡi – sàn miệng
Tác giả
Lý Xuân Quang; Nguyễn Thị Hồng Loan; Nguyễn Lê Vũ Hoàng; Lê Quang Hưng; Văn Thị Hải Hà; Lê Thị Thu Hồng; Phạm Kiên Hữu
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
Đặc biệt
Trang bắt đầu
135-143
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Xác định tỷ lệ rối loạn nuốt (RLN) và khảo sát vai trò của PHCN nuốt cho BN sau PT cắt KLSM. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu các trường hợp sau cắt KLSM tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM từ 01/2020 đến 08/2021, được đánh giá chức năng nuốt bằng các công cụ lâm sàng thời điểm sau PT và sau khi PHCN nuốt. Kết quả: 36 BN thỏa mãn tiêu chuẩn, tham gia vào nghiên cứu. Tính theo nhóm cắt lưỡi, 3/3 BN được PT cắt niêm mạc lưỡi không bị RLN. Trong khi đó, 7/7 BN cắt một phần, 14/14 BN cắt bán phần, 6/6 BN cắt gần toàn bộ, 1/1 BN cắt toàn bộ lưỡi, 4/5 BN cắt bỏ đáy lưỡi có biểu hiện RLN. Những BN này được hướng dẫn các bài tập tập trung vào cơ lưỡi và đáy lưỡi, thay đổi chế độ ăn uống, tập cơ mút và cơ vòng môi nếu có sử dụng vạt tạo hình, thực hiện nghiệm pháp nuốt siêu trên thanh quản (SSG), thay đổi tư thế đầu cổ khi nuốt tuỳ theo kiểu RLN. Sau 01 tháng, BN cải thiện khả năng ăn uống. Mặc dù còn 1/14 BN được cắt bán phần, 6/6 BN cắt gần toàn bộ, 1/1 BN được cắt toàn bộ lưỡi vẫn còn RLN, nhưng tất cả các trường hợp đều có thể ăn uống qua miệng. Tính chung, tỷ lệ RLN ngay sau PT là 88,9% giảm còn 22,2% sau xuất viện 01 tháng, giảm có ý nghĩa thống kê (p<0.05). Tỷ lệ đặt ống nuôi ăn giảm từ 88,9% (sau PT) xuống còn 8,3% (trước xuất viện) có ý nghĩa (p<0.05). Việc thực hiện thay đổi tư thế đầu cổ và/hoặc nghiệm pháp khi nuốt giúp cải thiện khả năng nuốt. Kết luận: Sau xuất viện một tháng: nhóm cắt niêm mạc, một phần, bán phần, và đáy lưỡi có chức năng nuốt hồi phục hoàn toàn. Trong khi, 100% nhóm cắt gần toàn bộ và toàn bộ lưỡi còn RLN giai đoạn miệng và giai đoạn miệng-họng, luôn cần phải thực hiện thay đổi tư thế đầu cổ khi nuốt. Việc PHCN nuốt sau PT cắt KLSM làm giảm đáng kể tỉ lệ RLN.

Abstract

Estimate the prevalence of dysphagia, and assess the role of swallowing rehabilitationin patients undergoing T-FOMC removal. Method: Longitudinal prospective study: Study population was chosen among patients undergoing T-FOMC removal at the University Medical Center Ho Chi Minh City from 01/2020 to 08/2021. Selected patients were evaluated swallowing function by clinical tools before and after swallowing therapy. Results: 36 patients were selected to participate in the study. Based on the type of glossectomy: 3/3 patients with tongue mucosectomy did not experience dysphagia after surgery. 7/7 patients with partial glossectomy, 14/14 patients with hemiglossectomy, 6/6 patients with subtotal glossectomy, 1/1 patient with total glossectomy, and 4/5 patients with tongue base removal had dysphagia. Patients with dysphagia underwent exercises focusing on muscles tongue and base of the tongue, and diet modification. In addition to the rehabilitation, some patients also exercised buccinator and orbicularis oris muscle, performed the super-supraglottic swallow maneuver (SSG), modification of head and neck posture during swallowing, and exercises for lower jaw. After 1 month, the patients showed improvement in the ability to eat and drink; only 1/14 patient with hemiglossectomy, 6/6 patients with subtotal glossectomy, 1/1 patient with total glossectomy still experience dysphagia, but can eat or drink through the mouth. Overally, the prevalence of swallowing disorder post-surgery was 88.9% and it was reduced to 22.2% one month after discharge, which was statistically significant (p<0.05). The prevalence of feeding tube placement decreased from 88.9% (after surgery ) to 8.3% (before hospital discharge), which was statistically significant (p<0.05). Modification of the head and neck position and/or performing the SSG when swallowing helps to improve the patient's swallowing ability. Conclusion: One month after hospital discharge, the patients underwent partial glossectomy, hemiglossectomy, tongue base removal had a complete recovery of swallowing function. Whereas, 100% of patients with subtotal and total glossectomy still expirienced dysphagia during the oral and oropharyngeal stages, which always required a change the head position when swallowing. In conclution, swallowing rehabilitation after surgery for T-FOMC significantly reduces the prevalence of dysphagia