Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Điều trị sỏi thận bằng phương pháp lấy sỏi thận qua da: Nghiên cứu so sánh giữa đường hầm nhỏ và đường hầm tiêu chuẩn

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Điều trị sỏi thận bằng phương pháp lấy sỏi thận qua da: Nghiên cứu so sánh giữa đường hầm nhỏ và đường hầm tiêu chuẩn
Tác giả
Võ Phước Khương; Lê Công Đức; Giảng Anh Duy
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
CD1
Trang bắt đầu
166-173
ISSN
1859-1868
Từ khóa nghiên cứu
Tóm tắt

So sánh kết quả điều trị sỏi thận bằng phương pháp lấy sỏi thận qua da đường hầm nhỏ (ĐHN) và đường hầm tiêu chuẩn (ĐHC). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu 298 trường hợp lấy sỏi thận qua da tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ tháng 09/2011 đến 12/2023. Nghiên cứu so sánh tỉ lệ sạch sỏi, biến chứng, thời gian phẫu thuật giữa hai nhóm và sử dụng Student-t test, Chi- square test, or Fisher’s exact tests. Giá trị p <0,05 cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa. Kết quả: Nhóm 1 gồm 100 trường hợp lấy sỏi thận qua da đường hầm nhỏ có tuổi trung bình 50,4 ± 12,2 tuổi. Nhóm 2 gồm 198 trường hợp lấy sỏi thận qua da đường hầm tiêu chuẩn có tuổi trung bình là 49,8 ± 12,2 tuổi. Kích thước sỏi trung bình ở nhóm đường hầm tiêu chuẩn lớn hơn nhóm đường hầm nhỏ có ý nghĩa thống kê (25,5 ± 7 so với 20,7 ± 7 mm, p < 0,0001). Tỉ lệ sạch sỏi hoàn toàn không khác biệt giữa 2 nhóm (90% so với 91%, p = 0,79). Thời gian mổ trung bình nhóm đường hầm nhỏ kéo dài hơn (52 ± 20,6 so với 36,6 ± 14,2, p < 0,0001). Tổng số trường hợp biến chứng không khác biệt giữa 2 nhóm (p = 0,31) nhưng hầu hết biến chứng nặng xảy ra ở nhóm đường hầm tiêu chuẩn. Mức độ giảm Hb thấp hơn ở nhóm đường hầm nhỏ (1,11 ± 0,97 so với 1,5 ± 1,3, p < 0,0001). Thời gian nằm viện trung bình ở nhóm đường hâm nhỏ ngắn hơn có ý nghĩa thống kê (3,3 ± 1,3 so với 3,9 ± 2,2, p = 0,013). Kết luận: Lấy sỏi thận qua da đường hầm nhỏ có tỉ lệ thành công tương đương với đường hầm chuẩn, ít biến chứng nặng, thời gian mổ kéo dài hơn và thời gian nằm viện ngắn.

Abstract

To compare the efficacy and safety of minimally invasive percutaneous nephrolithotomy (Mini-PNL) and conventional percutaneous nephrolithotomy (cPNL) in the treatment of renal stones at the Nguyen Tri Phuong hospital. Patients and methods: A retrospective study was performed between September 2011 and August 2023 for 298 patients treated by Mini-PNL or standard-PNL. Both groups were compared in stone-free rate, complications, and operative time using the Student-t test, Chi- square test, or Fisher’s exact tests. A p-value less than < 0.05 was considered statistically significant. Results: There were no significant differences in the stone-free rate or complication rate between the two groups (p= 0.79 and p= 0.31, respectively). Only higher-graded complications (grade III, IV) were significantly more common in cPNL. Operative time was significantly shorter and hospital stay was significantly longer in cPNL compared to mini-PLN ((p < 0.0001 and p = 0.013, respectively). Conclusions: Minimally invasive percutaneous nephrolithomy was a safety and efficacy procedure for the management of renal stones.