Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Hiệu quả phương pháp đặt catheter tĩnh mạch cảnh trong dưới hướng dẫn siêu âm tại Khoa cấp cứu, Bệnh viện Nhi đồng 2

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Hiệu quả phương pháp đặt catheter tĩnh mạch cảnh trong dưới hướng dẫn siêu âm tại Khoa cấp cứu, Bệnh viện Nhi đồng 2
Tác giả
Văn Thị Cẩm Thanh; Nguyễn Huy Luân; Hồ Thị Quỳnh Nga; Trương Thanh Toàn; Phạm Ngọc Trâm
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
CD3
Trang bắt đầu
129-136
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Kỹ thuật đặt catheter tĩnh mạch trung tâm dưới hướng dẫn siêu âm có nhiều ưu thế so với kỹ thuật dựa trên mốc giải phẫu. Tuy nhiên, kĩ thuật này vẫn chưa được ứng dụng rộng rãi. Nghiên cứu này so sánh hiệu quả của phương pháp đặt catheter tĩnh mạch cảnh trong dưới hướng dẫn siêu âm so với phương pháp mốc giải phẫu. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, tiến cứu được thực hiện tại khoa Cấp cứu Bệnh viện Nhi đồng 2 trong khoảng thời gian từ 04/2021 – 05/2022. Kết quả: Có 131 bệnh nhân với 87 bệnh nhân trong nhóm siêu âm và 44 bệnh nhân trong nhóm mốc giải phẫu. Không có sự khác biệt về tỉ lệ thành công chung (94,3% so với 88,6%, p = 0,253), biến chứng (9,2% và 15,9%, p = 0,254) và thời gian từ lúc đâm kim đến khi luồn guidewire (28 giây so với 30 giây, p = 0,822) giữa 2 nhóm siêu âm và mốc giải phẫu. Đối với bệnh nhân < 3 kg, nhóm siêu âm có tỉ lệ thành công cao hơn (100% so với 42,9%, p = 0,049). Ứng dụng siêu âm làm tăng tỉ lệ thành công ở lần đâm kim đầu tiên ở nhóm siêu âm so với nhóm mốc giải phẫu (81,7% so với 59%, p = 0,007, OR = 3,1 với 95% CI 1,33 – 7,26). Tỉ lệ BN có < 3 lần đâm kim là 96,3% ở nhóm siêu âm và 84,6% ở nhóm mốc giải phẫu (p = 0,022, OR = 4,78 với 95% CI 1,13 – 20,29). Tỉ lệ biến chứng tràn khí màng phổi ở nhóm siêu âm thấp hơn nhóm mốc giải phẫu (0% và 2,3%, p = 0,036, OR = 0,32 với 95% CI 0,249 – 0,412). Không có sự khác biệt về tỉ lệ thành công và biến chứng theo kinh nghiệm người thực hiện. Bác sĩ có kinh nghiệm ít đến trung bình có tỉ lệ thành công ở lần đâm kim đầu tiên là 83,3% ở nhóm siêu âm so với 44,4% ở nhóm mốc giải phẫu (p = 0,006, OR = 6,2 với 95% CI = 1,46 – 26,46). Kết luận: Ứng dụng siêu âm khi đặt catheter tĩnh mạch cảnh trong làm tăng tỉ lệ thành công ở lần đâm kim đầu tiên, đặc biệt ở nhóm bác sĩ không có nhiều kinh nghiệm, tăng tỉ lệ thành công ở nhóm bệnh nhân có cân nặng thấp, giảm số lần đâm kim, giảm tỉ lệ biến chứng tràn khí màng phổi so với phương pháp mốc giải phẫu.

Abstract

Central venous catheterization with ultrasound-guided shows many advantages compare with traditional procedure. However, this procedure with ultrasound has not broadly applied. This study aims to evaluate the effectiveness of real-time ultrasound guidance over landmark technique for the internal jugular vein catheterization. Methods: A prospective cross-sectional study in pediatric patients, performed ultrasound-guided catheterization of the internal jugular vein at the Emergency department in Children’s hospital 2 from 04/2021 to 05/2022. Results: There were 131 patients enrolled with 87 patients into ultrasound (US) group and 44 patients into landmark (LM) group. There was no difference in overall success rates (94.3% US vs. 88.6% LM, p = 0.253), overall complications (9.2% US vs 15.9% LM, p = 0.254), and the median canulation time (28 seconds US vs 30 seconds LM, p = 0.822). To patients with a weight below 3 kg, we found a higher success rate in the ultrasound guidance than in the LM group (100% vs 42.9%, p = 0.049). Ultrasound was associated with an increase in the first-attempt success rate (81.7% vs 59%, p = 0.007, OR = 3.1 95% CI 1.33 to 7.26). Fewer than three attempts were required to achieve success in 96.3% of patients in the US guidance group but 84.6% in the LM group (p = 0.022, OR = 4.78, 95% CI 1.13 to 20.29). Ultrasoud guidance also significantly reduced the incidence of pneumothorax (0% và 2.3%, p = 0.036, OR = 0.32, 95% CI 0.249 to 0.412). There was no difference in overall success rates and complications according to operator’s experience. Success on the first attempt performed by operators with limited experience was seen in 83.3% and 44.4% of venous punctures in the US guidance and LM groups, respectively (p = 0.006, OR = 6.2 95% CI = 1.46 – 26.46). Conclusion: Compared with the landmark technique, ultrasound guidance for internal jugular vein cannulation in children was associated with an increased first-attempt success rate, especially performed by operators with limited experience, an increased success rate in patients with low weight, a reduced number of puncture attempts, and a fewer incidence of pneumothorax during central venous catheter placement in children.