Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết cục của thông liên thất đơn thuần trên thai nhi được chẩn đoán trước sinh tại Bệnh viện Từ Dũ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết cục của thông liên thất đơn thuần trên thai nhi được chẩn đoán trước sinh tại Bệnh viện Từ Dũ
Tác giả
Nguyễn Thái Đông Nhi; Nguyễn Hồng Hoa
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
1-CD4
Trang bắt đầu
18-26
ISSN
1859-1779
Tóm tắt

Mô tả kết cục của thai nhi có thông liên thất (TLT) được chẩn đoán trước sinh tại bệnh viện Từ Dũ (BV TD) và xác định tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể (NST) trong các trường hợp TLT đơn thuần. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo loạt ca hồi cứu. Thai phụ với có thai từ 18 – 24 tuần, được chẩn đoán TLT đến khám, quản lý thai tại khoa chẩn đoán trước sinh BVTD trong khoảng thời gian từ ngày 31 tháng 12 năm 2019 trở về trước, sau đó trẻ có kiểm tra, theo dõi sau sinh tại Bệnh viên Nhi Đồng. Các đặc điểm của thai phụ và thai nhi có TLT được ghi nhận, tỉ lệ bất thường NST, kết cục thai nhi và theo dõi đến 6 tháng sau sinh. Kết quả: Có 46 trường hợp (TH) TLT nhận vào nghiên cứu, trong đó TLT phần cơ chiếm tỉ lệ 43,47%, phần quanh màng: 41,30%, phần thoát: 13,06%, phần nhận: 2,17%, lỗ thông có đường kính trung bình: 2,06±1,95 mm. Khảo sát di truyền thực hiện trên 20/46 TH (43,49%), không TH nào bất thường số lượng và cấu trúc NST. Kết cục thai kỳ lúc sinh: tuổi thai lúc sinh 38,13 ± 2,13 tuần (82,61% ≥37 tuần); Cân nặng lúc sinh: 2827,17±624,3gr (82,61% ≥ 2500gr); Chỉ số Apgar ≥7 điểm: 1 phút 82,61%, 5 phút 97,8%; Tỉ lệ nhập Chăm sóc đặc biệt sơ sinh: 8,7%. Không trẻ nào cần can thiệp/phẫu thuật tim trong vòng 6 tháng với TLT tự đóng 20/44 TH (45,45%). Kết luận: Thai nhi có thông liên thất đơn thuần trong thai kỳ có diễn tiến tốt trong và sau sinh 6 tháng. Khảo sát di truyền ở mức độ gen cần được khuyến cáo khi thai được chẩn đoán có TLT đơn thuần.

Abstract

Ventricular septal defect (VSD) is a common heart birth defect. VSD is frequently isolated; however, it can occur in association with other congenital heart defects. Early dection of VSD is tremendously improved with technical advances in diagnostic imaging technology. Isolated ventricular septal defect, which may self-limit or require intervention after birth, is important in antenatal care strategy and postpartum follow-up. Objectives: To describe the outcome of the fetus having VSD was diagnosted in Tu Du hospital and the rate of chromosomal anomalies in such cases. Methods: A case series was conducted on the pregnant women, who had the fetus with confirmed of VSD at 18-24 weeks of gestation, had pregnancy care at Prenatal Care Unit, Tu Du hospital f-rom 31/12/2019 forward. The c-haracteristics of pregnancies and VSD were analyzed, including follow-up until 6 months of age. Results: Out of 46 cases of VSD included in the study, muscular VSD was 43.47%, perimembranous VSD was 41.30%, the outlet VSD was 13.06%, the inlet VSD was 2.17% and mean size of the opening was 2.06 ± 1.95mm. There was no chromosomal abnormality in 20 cases of chromosomal analysis. Gestational age at birth range was 38.13±2.13 weeks (82.61% ≥ 37 weeks), weight at birth range was 2827.17±624.3gr (82.61% ≥ 2500gr). Apgar ≥ 7 points: 1 minute 82.61%, 5 minutes 97.8%. The rate of Neonatal Special Care admission was 8.7%. Non of live-born needs heart intervention during 6 months postpartum with the number of spontaneous closures in 20 of the 44 infants (45.45%). Conclusions: Isolated VSD diagnosed prenatally does not appear to have chromosomal abnormalites and has a favorable clinical outcome follow-up until 6 months of age. But the genetic analysis should be recommended.