Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả chẩn đoán và điều trị áp xe tuyến tiền liệt tại Bệnh viện Chợ Rẫy

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả chẩn đoán và điều trị áp xe tuyến tiền liệt tại Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả
Ngô Xuân Thái; Nguyễn Hoài Phan; Lý Hoài Tâm; Thái Minh Sâm
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
CD2
Trang bắt đầu
299-306
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá kết quả chẩn đoán và điều trị áp xe tuyến tiền liệt tại khoa Ngoại Tiết Niệu, bệnh viện Chợ Rẫy, Thành Phố Hồ Chí Minh. Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả 76 trường hợp áp xe tuyến tiền liệt được chẩn đoán và điều trị tại khoa Ngoại Tiết Niệu, bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian từ 01/2017 đến 06/2022. Kết quả: Tất cả 76 trường hợp áp xe tuyến tiền liệt đều được chẩn đoán dựa vào siêu âm tuyến tiền liệt qua ngả trực tràng, MRI hoặc chụp CT scan. Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 51,58 tuổi (24-85 tuổi). Đái tháo đường, bệnh lý tắc nghẽn đường tiết niệu dưới và bệnh lý suy giảm miễn dịch là các yếu tố nguy cơ thường gặp nhất. Triệu chứng đường tiết niệu dưới, sốt lạnh run, đau vùng tầng sinh môn, bí tiểu là dấu hiệu cơ năng thường gặp chiếm lần lượt 67%, 47%, 30% và 32%. Tuyến tiền liệt đau chói và phập phều khi thăm khám trực tràng bằng ngón tay là triệu chứng thực thể điển hình nhất (2/3 các trường hợp). Áp xe đơn ổ chiếm 36,84% các trường hợp, 63,16% các trường hợp có từ 2 đến 4 ổ áp xe, đa số có kích thước lớn hơn 1cm (chiếm 94,74%). Về vi sinh, tỷ lệ phân lập được vi khuẩn trong các mẫu cấy nước tiểu, cấy mủ, cấy máu lần lượt là 31,34%, 58,2%, 19,6%. Vi khuẩn phân lập được trong các môi trường bao gồm: E.Coli, Klebsiella Pneumonie, Burkho Pseudomallei, Pseudomonas, Staphylococcus Aureus, Enterococcus faecium, Enterobacter, Morganella morganii, trong đó tác nhân chiếm đa số là E.Coli, Klebsiella Pneumonie và Burkho Pseudomallei. Ngoài ra chúng tôi ghi nhận được 6/76 trường hợp mủ từ ổ áp xe dương tính với lao. Về điều trị, 5/76 trường hợp (6,58%) được điều trị nội khoa bảo tồn. Đa số các trường hợp được can thiệp ngoại khoa, cụ thể: 38/76 trường hợp (50%) được phẫu thuật mở bàng quang ra da, chọc thoát lưu áp xe; 12/76 trường hợp (15,79%) được nội soi xẻ dẫn lưu áp xe qua ngả niệu đạo; 3/76 trường hợp (3,95%) được cắt đốt nội soi qua ngả niệu đạo để thoát lưu mủ, 18/76 trường hợp (23,68%) được chọc hút bằng kim qua siêu âm trực tràng.