
Phình động mạch chủ bụng đã được mô tả và điều trị từ rất lâu. Năm 1951, tác giả Dubost và cộng sự đã phẫu thuật thành công ca phình động mạch chủ bụng đầu tiên [1]. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng biến chứng muộn trong quá trình theo dõi những trường hợp sau can thiệp nội mạch điều trị phình động mạch chủ bụng tăng cao, đáng để quan tâm [2], [3]. Tác giả Robert Blair và cộng sự (2023), nghiên cứu (N=1017) kết quả phẫu thuật điều trị phình động mạch chủ bụng dưới thận ghi nhận tỉ lệ tử vong trong 30 ngày chiếm 2,5% mẫu nghiên cứu với nhóm phình không vỡ [5]. Tác giả Gruber M và cộng sự (2023), nghiên cứu so sánh giữa can thiệp nội mạch và phẫu thuật điều trị phình động mạch chủ bụng (N= 1509), ghi nhận tỉ lệ tử vong trong 30 ngày sau phẫu thuật chiếm 2.4% đến 3% các trường hợp phẫu thuật. Phẫu thuật điều trị phình động mạch chủ bụng còn được chỉ định trên những bệnh nhân trẻ tuổi hoặc có cổ túi phình không thuận lợi cho can thiệp nội mạch. Phương pháp: Hồi cứu mô tả loạt ca. Kết quả: Nghiên cứu có tuổi trung bình 64 ± 20,1, nam giới chiếm đa số. Yếu tố rối loạn chuyển hoá lipid và hút thuốc lá chiếm tỉ lệ lần lượt 90 % và 85,8%. Tổn thương động mạch chủ bụng dạng thoi là chủ yếu, chiếm 90% mẫu nghiên cứu. Phình động mạch chủ bụng kèm phình động mạch chậu chiếm 85,8% mẫu nghiên cứu. Đường mở giữa bụng chiếm hầu hết, 97,3% mẫu nghiên cứu. Nghiên cứu ghi nhận loại prothese chữ Y và ống thẳng, lần lượt chiếm 88,1% và 11,9%. Hầu hết chúng tôi có kèm phục hồi lưu thông động mạch chậu trong, chiếm 89,6%. Thời gian kẹp động mạch chủ chậu khoảng 44,5 phút và thời gian phẫu thuật trung bình khoảng 195 phút. Tỉ lệ thành công về kỹ thuật đạt 97,2%, tỉ lệ tử vong trong 30 ngày chiếm 4,1%. Ở giai đoạn theo dõi, tỉ lệ sống còn chiếm 64,8% mẫu nghiên cứu. Kết luận: Phẫu thuật điều trị phình động mạch chủ bụng dưới thận có tỉ lệ thành công về kỹ thuật cao, ít biến chứng và tỉ lệ sống cao ở giai đoạn theo dõi. Do đó, phương pháp này đem lại hiệu quả, an toàn và ít biến chứng.
Abdominal aortic aneurysms have been described and treated for a long time. In 1951, author Dubost and his colleagues successfully operated on the first abdominal aortic aneurysm [1]. Many studies have shown that late complications during follow-up of cases after endovascular intervention to treat abdominal aortic aneurysms are high and worthy of concern [2], [3]. Author Robert Blair and colleagues (2023) studied (N=1017) the surgery results to treat infrarenal abdominal aortic aneurysms. They recorded a 30-day mortality rate of 2.5% of the study sample, with the group in the aneurysm not ruptured [5]. Author Gruber M and colleagues (2023), a comparative study between endovascular intervention and surgery for abdominal aortic aneurysm (N= 1509), recorded that the mortality rate within 30 days after surgery accounted for 2.4 % to 3% of surgical cases. Surgical treatment of abdominal aortic aneurysms is also indicated in patients who are young or have aneurysm necks that are not favorable for endovascular intervention. Methods: Retrospective description of case series. Results: The study had an average age of 64 ± 20.1 years, with the majority being male. Lipid metabolism disorders and smoking account for 90% and 85.8%, respectively. Abdominal aortic aorta fusiform lesions are the leading cause, accounting for 90% of the study sample. Abdominal aortic aneurysm with iliac artery aneurysm accounted for 85.8% of the study sample. Most use a mid-abdominal approach, accounting for 97.3% of the study sample. The study noted that Y-shaped and straight tube types accounted for 88.1% and 11.9%, respectively. Most of us included restoration of internal iliac artery revascularization, accounting for 89.6%. The aortic iliac clamping time is about 44.5 minutes, and the average surgery time is about 195 minutes. The technical success rate reached 97.2%, the 30-day mortality rate was 4.1%. The survival rate accounted for 64.8% of the study sample during the follow-up period. Conclusion: Surgical treatment of infrarenal abdominal aortic aneurysm has a high technical success rate, few complications, and a high survival rate in the follow-up period. Therefore, this method is effective, safe, and has few complications.
- Đăng nhập để gửi ý kiến