
Động kinh (ĐK) kháng thuốc là vấn đề lâm sàng phổ biến và khiến cho việc điều trị bệnh nhân trở nên khó khăn. Ở những bệnh nhân động kinh kháng thuốc có các thăm dò chẩn đoán liên quan tới tổn thương lan tỏa một bán cầu, phẫu thuật cắt liên kết bán cầu là lựa chọn tốt cho việc cải thiện điều trị và ngày càng phổ biến hơn. Tại bệnh viện nhi Trung ương đã tiến hành phẫu thuật cắt liên kết bán cầu chức năng từ 2016, chúng tôi tiến hành nghiên cứu kết quả điều trị ở nhóm bệnh nhân trẻ em được điều trị cắt liên kết bán cầu chức năng tại Bệnh viện Nhi Trung ương nhằm mục đích đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật. Đối tượng nghiên cứu: Nhóm 12 bệnh nhân được phẫu thuật cắt liên kết bán cầu chức năng điều trị động kinh kháng thuốc tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ năm 2016 đến 2022. Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên nhóm 12 bệnh nhân trẻ em đã được phẫu thuật cắt bán cầu chức năng từ 2016 - 2022. Chúng tôi thu thập thông tin nghiên cứu qua hồ sơ bệnh án, phim chụp chẩn đoán hình ảnh trước và sau phẫu thuật, tái khám bệnh nhân để đánh giá kết quả điều trị. Kết quả: Về giới tính, tỉ lệ bệnh nhân nam/nữ = 5/1; về độ tuổi phẫu thuật: 3,9 ± 3,3 tuổi (9 tháng - 10 tuổi); về thời gian từ khởi phát cơn tới phẫu thuật: 2,62 ± 2,29 năm (8 tháng - 7,5 năm); nhóm khởi phát động kinh từ sơ sinh chiếm tỉ lệ cao nhất: 50%; chẩn đoán trước mổ: phì đại bán cầu 58,3%, viêm não Rasmussen 16,7%, teo não thứ phát 16,7%, và 1 trường hợp cộng hưởng từ âm tính; 2 kĩ thuật mổ được thực hiện là cắt liên kết theo Delalande 41,7%, cắt quanh thùy đảo biến đổi 58,3%; kết quả kiểm soát động kinh sau phẫu thuật Engel I: 50%, Engel II: 50%. Kết luận: Phẫu thuật cắt liên kết bán cầu do động kinh kháng trị Bệnh viện Nhi Trung ương bước đầu mang lại hiệu quả khả quan về kiểm soát cơn giật trong điều trị động kinh kháng thuốc.
Intractable epilepsy affects a substantial minority of patients but imposes a significant challenge in management. Neurosurgery constitutes the best treatment of choice when AED is not effective. Hemispherotomy is a good option for diffuse unilateral hemispheric involvement and now becoming more common. Since the first surgery in 2016, we retrospectively evaluated the surgical outcome of patients who underwent hemispherotomy in the Vietnam National Children’s Hospital. Objective: We sought to determine the surgical outcome of hemispherotomy in disabling seizure in the group of patients who had surgical indication for intractable epilepsy. Methods: We conducted a retrospective observational study at the Vietnam National Children’s Hospital. Patients who underwent hemispherotomy during 2016 - 2022 were enrolled. We collected patients’ information through medical records include demographic characteristicspre- and post-operative radiography imaging, pre-operative clinical status and 3 month-postoperative follow up for evaluating treatment outcomes. Results: Male was predominance with male/female ratio was 10/2. The median age at surgery was 3.9±3.3 years old (IQR); the median duration of epilepsy prior to surgery was 2.62 ± 2.29 years (IQR). Neonatal onset seizure accounted for the highest rate (50%). Pre-operative diagnosis was hemimegalencephaly (58.3%), Rasmussen’s encephalitis (16.7%) and secondary cerebral atrophy (16.7%). The vast majority of cases (91.6%) showed abnormality in magnetic resonance imaging. Vertical hemispherotomy was performed in five patients (41.7%) and peri-insular hemispherotomy in seven patients. Three month after surgery, 50% of patients had grade I and 50% had grade II in the Engel Epilepsy Surgery Outcome Scale
- Đăng nhập để gửi ý kiến