
Nơ vi hắc tố bẩm sinh là một trong các tổn thương da hay gặp ở trẻ sơ sinh, tổn thương có thể gây mất thẩm mỹ và chuyển thành ung thư hắc tố. Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp những thông tin về đặc điểm lâm sàng và những bằng chứng về kết quả điều trị nơ vi hắc tố bẩm sinh vùng mặt bằng phương pháp ghép da dày toàn bộ. Kết quả cho thấy đặc điểm lâm sàng nơ vi hắc tố bẩm sinh vùng mặt trên 46 khối nơ vi hình bầu dục hay gặp nhất (43,4%), màu đen (76,1%), gồ lên mặt da (58,7%), gặp nhiều nhất ở vùng má (29,9%), kích thước nhỏ (≤3cm) hay gặp nhất (41,3%). Thực hiện phẫu thuật cho 25 bệnh nhân với 25 khối nơ vi sử dụng phương pháp ghép da dày, 25/25 khối nơ vi đã được lấy bỏ hoàn toàn: phương pháp phẫu thuật được phối hợp chủ yếu là giãn da tự nhiên (chiếm 56%), vị trí lấy mảnh ghép chủ yếu là sau tai (67,4%), đơn vị giải phẫu nơ vi thường ghép da là mi mắt (100%), mũi (93,3%), số đơn vị được ghép da nhiều nhất là 1 đơn vị (48%), ít nhất là 5 đơn vị (4%). Kết quả điều trị gần: tốt là 42 mảnh ghép (97,7%), trung bình là 1 mảnh ghép (2,3%), không có mảnh ghép nào cho kết quả kém. Kết quả điều trị xa: tốt là 41 mảnh ghép (95,3%), trung bình là 2 mảnh ghép (4,7%). Hầu hết các mảnh ghép có màu sắc tương đồng với tổ chức xung quanh, tỉ lệ co kéo tổ chức không lớn, sẹo nơi cho và nhận ở mức tối thiểu, không có trường hợp nào tái phát khi theo dõi xa, các phụ huynh đều hài lòng với kết quả điều trị. Như vậy, phương pháp ghép da dày toàn bộ là kỹ thuật đơn giản, an toàn, hiệu quả đối với điều trị nơ vi hắc tố vùng mặt.
Congenital melanocytic nevi are one of the newborns' most common skin lesions, which can cause loss of aesthetics and turn into melanoma. Our study provides information on the clinical features and evidence on the results of treating congenital facial nevus utilizing skin grafting. The results showed that the clinical features of congenital nevus in the upper face are 46 most common oval-shaped masses (43.4%), black color (76.1%), most common in the cheek area (29.9%), with small size (≤3cm) most common (41.3%). All 25 patients were completely cleared of the nevus by using skin grafts and combined with serial excision in most cases (accounting for 56%). The donor site for skin graft is mainly post-auricular (67.4%), and the most common surgical unit for skin grafting is the eyelid (100%) and the nose (93.3%). The incidence of anatomical units for skin grafts is mostly 1 unit (48%) and leastly for 5 units (only 4%). Treatment results were good in 42 grafts (97.7%), average in 1 graft (2.3%), and nografts got poor results in the short term. The long-term result was good in 41 grafts (95.3%) and average in 2 grafts (4.7%). Most of the grafts have the matching color with as the surrounding tissue, minor contracture of tissue around the graft, and the scars at the donor and recipient sites are minimal; there are no cases of recurrence at distant follow-up and the parents. All were satisfied with the results of the treatment. In conclusion, thickness skin graft is a simple, safe, and effective technique for treating congenital facial nevus.
- Đăng nhập để gửi ý kiến