Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả giảm đau và các yếu tố liên quan sau can thiệp tạo hình thân đốt sống qua da ở các bệnh nhân nam giới có loãng xương tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả giảm đau và các yếu tố liên quan sau can thiệp tạo hình thân đốt sống qua da ở các bệnh nhân nam giới có loãng xương tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
Tác giả
Lê Hằng Phương; Lưu Thị Bình; Vũ Thị Thu Hằng
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
165-169
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá kết quả giảm đau và các yếu tố liên quan sau can thiệp tạo hình thân đốt sống qua da ở các bệnh nhân nam giới có loãng xương. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp bơm xi măng sinh học vào thân đốt sống bị xẹp do loãng xương trên 37 bệnh nhân nam giới. Kết quả: Trước can thiệp tất cả bệnh nhân có mức độ đau nặng trở lên. Sau can thiệp 24 giờ bệnh nhân có mức độ đau vừa chiếm tỉ lệ 73,0%. Sau can thiệp 1 tháng và sau can thiệp 3 tháng bệnh nhân có mức độ đau ít chiếm tỉ lệ lần lượt là 81,1% và 83,8%. Có mối tương quan giữa mật độ xương và mức độ đau tại 3 thời điểm sau can thiệp. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ đau vào thời điểm sau can thiệp 24 giờ giữa các bệnh nhân theo phân loại số đốt sống xẹp mới (p = 0,042 < 0,05) và mức độ đau thời điểm sau can thiệp 3 tháng giữa các nhóm bệnh nhân theo mức độ xẹp đốt sống theo phân loại Genant (p = 0,013 < 0,05). Kết luận: Điều trị xẹp thân đốt sống do loãng xương bằng bơm xi măng sinh học là phương pháp điều trị có hiệu quả. Các yếu tố mật độ xương, số đốt sống xẹp mới và mức độ xẹp đốt sống mới có liên quan đến mức độ đau sau can thiệp.

Abstract

To evaluate pain relief outcomes and related factors following percutaneous vertebroplasty in male patients with osteoporosis. Method: An interventional study was conducted with 37 male patients who underwent percutaneous vertebroplasty using bio-cement for osteoporotic vertebral compression fractures. Results: Prior to intervention, all patients experienced severe pain. At 24 hours post-intervention, 73,0% of patients reported moderate pain. At 1 month and 3 months post-intervention, the percentages of patients with mild pain were 81,1% and 83,8%, respectively. There was a correlation between bone density and pain levels at all three post-intervention time points. Statistically significant differences in pain levels at 24 hours post-intervention were observed based on the classification of new vertebral fractures (p = 0.042 < 0.05) and pain levels at 3 months post-intervention varied among patient groups based on Genant classification of vertebral compression (p = 0.013 < 0.05). Conclusion: Bio-cement vertebroplasty is an effective treatment for osteoporotic vertebral compression fractures. Factors such as bone density, the number of new vertebral fractures, and the degree of vertebral compression are associated with pain levels following the intervention.