Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả khúc xạ sau 5 năm điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ non bằng tiêm Bevacizumab nội nhãn tại Bệnh viện Nhi Trung ương

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả khúc xạ sau 5 năm điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ non bằng tiêm Bevacizumab nội nhãn tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Tác giả
Nguyễn Bá Trung; Lưu Thị Quỳnh Anh; Nguyễn Xuân Tịnh
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1B
Trang bắt đầu
211-215
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá kết quả khúc xạ 5 năm sau điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ non bằng tiêm Bevacizumab nội nhãn tại Bệnh viện Nhi trung ương. Nhận xét một số yếu tố liên quan đến kết quả khúc xạ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên bệnh nhân mắc bệnh võng mạc trẻ đẻ non hình thái 1 đã được điều trị bằng tiêm Bevacizumab nội nhãn tại Khoa Mắt, Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 02 năm 2018 trở về trước. Nghiên cứu mô tả cắt ngang có hồi cứu trên 224 mắt của 115 bệnh nhân. Kết quả: Khúc xạ tương đương cầu trung bình là -1,72 ± 4,17D, bao gồm: 105 mắt cận thị (47,2%), độ cận thị trung bình là -3,69 ± 4,01D. 30 mắt viễn thị (13,6%), độ viễn thị trung bình là +2,08 ± 1,22D. Có 45 mắt cận thị cao, chiếm 20,2%. Có 7 mắt viễn thị cao, chiếm 3,2%. Kết luận: Tỷ lệ tật khúc xạ ở bệnh nhân bị bệnh võng mạc trẻ đẻ non sau điều trị tiêm nội nhãn cao (60,8%), chủ yếu là cận thị chiếm 47,2%. Có mối liên quan giữa cận thị với tuổi thai, cân nặng khi sinh và giai đoạn bệnh. Kiến nghị: Trẻ sau điều trị bệnh võng mạc trẻ đẻ non bằng tiêm nội nhãn Bevacizumab cần đi khám sàng lọc thị lực định kỳ để phát hiện sớm và điều trị tật khúc xạ, tránh biến chứng nhược thị.

Abstract

Assessment of refractive outcomes five years post-treatment for retinopathy of prematurity with intraocular Bevacizumab injection at Viet Nam National Children’s Hospital. Discussion on related factors impacting refractive results. Materials and methods: the study was conducted on patients diagnosed with retinopathy of prematurity type 1 who underwent intravitreal Bevacizumab injection at the Department of Ophthalmology – National Children’s Hospital before February 2018. This retrospective cross-sectional descriptive study encompasses 224 eyes of 115 patients. Results: The mean spherical equivalent was -1.72 ± 4,17D. This encompassed 105 myopic eyes (47,2%), with an average myopia power was -3,69 ± 4,01D. Additionally, 30 eyes exhibited hyperopia (13,6%), with an average hyperopia power was + 2.08 ± 1,22D. Among these, 45 eyes were diagnosed with high myopia, representing 20,2% of the sample, while 7 eyes had high hyperopia, accounting for 3,2%. Conclusion: The prevalence of refractive errors among patients who had retinopathy of prematurity treated with intravitreal Bevacizumab injection is considerable, at 60,8%, with myopia being the majority, constituting 47,2% of cases. Furthermore, significant associations exist between the development of myopia and gestational age, birth weight, and disease severity. Recommendation: children who have undergone treatment for retinopathy of prematurity with intravitreal Bevacizumab injection need to have routine vision screening to promptly identify and manage refractive errors, thereby preventing the risk of amblyopia complication.