Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả phẫu thuật răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm liên quan thần kinh răng dưới có sử dụng máy piezotome tại Bệnh viện Trường Đại học Y dược Cần Thơ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả phẫu thuật răng khôn hàm dưới mọc lệch ngầm liên quan thần kinh răng dưới có sử dụng máy piezotome tại Bệnh viện Trường Đại học Y dược Cần Thơ
Tác giả
Văn Thị Sóc Nâu; Trần Thị Phương Đan; Lâm Nhựt Tân; Kim Ngọc Khánh Vinh
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
55
Trang bắt đầu
193-200
ISSN
2354-1210
Tóm tắt

Mô tả đặc điểm lâm sàng, X quang, đánh giá kết quả điều trị răng khôn hàm dưới liên quan đến thần kinh răng dưới bằng phẫu thuật có sử dụng máy Piezotome. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 36 bệnh nhân có răng khôn hàm dưới liên quan đến thần kinh răng dưới được phẫu thuật có sử dụng máy Piezotome. Các đặc điểm lâm sàng (tình trạng viêm nhiễm, sự hiện diện trên cung hàm, độ há miệng, mức độ đau), đặc điểm trên phim X quang (tương quan với thần kinh răng dưới) và biến chứng sau phẫu thuật được ghi nhận để đánh giá kết quả. Kết quả: Trước phẫu thuật, có 27 răng (75%) có tình trạng viêm nhiễm, 26 răng (72,2%) đã xuất hiện trên cung hàm. Tương quan của răng khôn hàm dưới so với thần kinh răng dưới trên phim X quang phổ biến nhất là loại II (theo Qian Luo, 2017), chiếm 77,8%. Độ há miệng trung bình trước phẫu thuật, sau phẫu thuật 1 ngày, 3 ngày, 7 ngày lần lượt là 45,36 ± 3,54mm, 36,33 ± 4,77mm, 41,67 ± 4,72mm, 44,97 ± 3,52mm. 2,8% người bệnh đau nhiều vào ngày đầu hậu phẫu, đau giảm dần và 80.6 % người bệnh không còn đau ở ngày thứ 7 hậu phẫu. 1 người bệnh (2,8%) có tình trạng dị cảm sau phẫu thuật, biến mất ở ngày thứ 40. Không có biến chứng khác. Kết luận: Piezosurgery là một phương pháp nhổ răng hiệu quả trong các trường hợp răng khôn hàm dưới liên quan đến thần kinh răng dưới.

Abstract

Injury of the inferior alveolar nerve is one of the most concerned complications following mandibular third molars removal. Piezosurgery has been becoming more and more popular, especially in the mandibular third molars extraction procedure. Objective: To describe clinical, paraclinical features of mandibular third molars which were removed using Piezosurgery and evaluate the surgical outcomes. Materials and methods: Descriptive crosssectional study was performed on 36 mandibular third molars which had close relationship to inferior alveolar nerve (according to cone beam computed tomography) were selected in this study. They were extracted using Piezosurgery. Clinical, paraclinical features and complications were recorded. Results: Before opperation, 75% of mandibular third molars in this study were diagnosed with an infection condition, 72.7% of them have partially erupted. The most popular relationship type between mandibular third molars and inferior alveolar nerve was type II, 77.8% (according to Qian Luo classification). The average ranges of mouth opening before surgery, 1 day, 3 days and 7 days postoperatively were 45.36 ± 3.54mm, 36.33 ± 4.77mm, 41.67 ± 4.72mm, 44.97 ± 3.52mm respectively. 2.8% of patients had moderate pain at the first day after procedure. 7 days postoperatively, 80.6% of patients felt no pain. Ipsilateral paresthesia was found in 1 patient after surgery and it disappeared 40 days later. There were no other complications recorded. Conclusion: Piezosurgery was an effective way for extraction mandibular third molars relating to inferior alveolar nerve.