Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả sớm và trung hạn phẫu thuật ít xâm lấn điều trị bệnh lý van hai lá ở bệnh nhân nguy cơ phẫu thuật cao tại Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả sớm và trung hạn phẫu thuật ít xâm lấn điều trị bệnh lý van hai lá ở bệnh nhân nguy cơ phẫu thuật cao tại Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả
Nguyễn Hoàng Định, Vương Ngọc Minh, Bùi Xuân Định, Nguyễn Ngọc Hải Đăng, Phạm Trần Việt Chương, Bùi Đức An Vinh
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
46
Trang bắt đầu
77-88
ISSN
0866-7551
Tóm tắt

Đánh giá kết quả sớm và trung hạn của phẫu thuật IXL điều trị bệnh lý van hai lá ở nhóm BN nguy cơ phẫu thuật cao tại bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu 68 BN thoả tiêu chuẩn nguy cơ phẫu thuật cao được phẫu thuật bệnh lý van hai lá IXL tại bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM từ tháng 1/2017 đến tháng 3/2023. Kết quả: Có 68 trường hợp thoả tiêu chuẩn chọn vào nghiên cứu. Tỉ lệ nam:nữ là 0.6:1. Trong đó, có 21 trường hợp được sửa van và 47 trường hợp thay van hai lá. 30.9% trường hợp có suy tim NYHA từ III trở lên. Thời gian sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT) và thời gian kẹp động mạch chủ (ĐMC) lần lượt là 157,4 ± 38,8 phút và 102,7 ± 26,3 phút. Có 3 trường hợp có biến chứng liên quan phẫu thuật IXL, gồm 1 trường hợp có biến chứng bó mạch đùi cần rạch cân giải áp chèn ép khoang, 1 trường hợp tụ dịch bạch huyết tại vết mổ vùng đùi và 1 trường hợp nhiễm trùng vết mổ vùng ngực cần làm cắt lọc làm sạch. Không có trường hợp nào phải chuyển mổ hở hay tử vong nội viện. Thời gian nằm hồi sức và thời gian điều trị hậu phẫu lần lượt là 4,6±3,5 ngày và 10,8±5,9 ngày. Trong giai đoạn hậu phẫu bệnh nhân nhanh chóng phục hồi và được tập vật lý trị liệu rất sớm từ ngay khi còn nằm tại đơn vị hồi sức. Trong thời gian hồi sức, có 1 trường hợp phát hiện tai biến mạch máu não nhưng không có di chứng, 1 trường hợp phải lọc thận liên tục sau mổ, 3 trường hợp phải đặt bóng dội ngược nội đồng mạch chủ (IABP), 3 trường hợp phải phẫu thuật lại do tràn máu màng phổi. Trong thời gian theo dõi sau xuất viện, có 3 trường hợp tử vong trong vòng 6 tháng và 3 trường hợp khác tử vong sau mổ 1 năm. Những BN khác ghi nhận đạt kết quả điều trị tốt tại thời điểm xuất viện và các lần tái khám sau. Kết luận: Phẫu thuật van hai lá IXL ở nhóm BN có nguy cơ phẫu thuật cao hơn thông thường là an toàn và hiệu quả.

Abstract

Minimally invasive mitral valve surgery (MIMVS) has seen significant advancement in the past decades, offering numerous benefits to patients. However, there remain cohorts of patients with mitral valve pathologies, deemed at higher surgical risk, who may face rejection for MIMVS due to concerns regarding potential postoperative complications associated with this approach. Objective-. To assess early and midterm outcomes of MIMVS in higher-operative-risk patients at the University Medical Center of Ho Chi Minh City. Methods. A retrospective descriptive study of the patients meeting our high operative risk criteria, who underwent mitral valve surgery at the University Medical Center of Ho Chi Minh City from January 2017 to March 2023. Results. A total of 68 eligible cases were included in our study. The male-to-female ratio was 0.6:1. Among these cases, 21 patients underwent valve repair and 47 others underwent mitral valve replacement. 30.9% of cases presented with NYHA class III or above heart failure. The mean cardiopulmonary circulation time and aortic cross-clamp time were 157.4 ± 38.8 minutes and 102.7 ± 26.3 minutes, respectively. Three cases experienced minimally invasive surgery related complications, including one case of limb ischemia requiring fasciotomy, one case of femoral wound seroma, and one case of postoperative wound infection necessitating debridement. No instances of conversion to sternotomy or in-hospital mortality were observed. The mean ICU stay and postoperative length of stay at ward were 4.6 ± 3.5 days and 10.8 ± 5.9 days, respectively. Patients showed rapid recovery during the postoperative period. During ICU care, one patient suffered a non­disabling cerebrovascular accident, one case required continuous renal replacement therapy, three cases necessitated intra-aortic balloon pump placement, and three cases required reoperation due to hemorrhagic pleural effusion. During follow-up period, three patients died within 6 months, and another patient died after theft surgery one year. Other patients had favorable outcomes at the time of discharge and at subsequent follow-up. Conclusion: Minimally invasive mitral valve surgeries highlight the feasibility and safety of minimally mitral valve surgery in higher- operative-risk patients.