
Khảo sát một số đặc điểm mô bệnh học và hóa mô miễn dịch của lymphôm tế bào T và rối loạn tăng sinh lymphô T nguyên phát ở da theo bảng phân loại cập nhật của Tổ chức Y tế thế giới và Tổ chức Nghiên cứu và Điều trị Ung thư Châu Âu về lymphôm da nguyên phát. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca. Đối tượng nghiên cứu gồm 39 trường hợp có kết quả giải phẫu bệnh lymphôm tế bào T và rối loạn tăng sinh lymphô T nguyên phát ở da tại Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 01/2018 đến tháng 02/2022. Kết quả: Chúng tôi ghi nhận 39 trường hợp, được chia thành 7 phân nhóm. Lymphôm tế bào T giống viêm mô mỡ dưới da thường gặp nhất, chiếm 35,8%. Các đặc điểm quan trọng của lymphôm tế bào T giống viêm mô mỡ dưới da gồm các tế bào u viền quanh mô mỡ dương với CD8 và chỉ số Ki-67 cao. U sùi dạng nấm là phân nhóm thường gặp thứ hai (28,6%) có các tế bào u hướng thượng bì dương với CD3. Kiểu hình CD4+/CD8– chiếm ưu thế với 8/11 trường hợp. Vi áp xe Pautrier có trong 8/11 trường hợp và là đặc điểm mô học quan trọng nhất trong chẩn đoán. Lymphôm tế bào lớn thoái sản nguyên phát ở da chiếm 15,4% với các tế bào u lớn dương với CD30 và âm với ALK. Lymphôm tế bào NK/tế bào T ngoài hạch, kiểu mũi với tỉ lệ cao hơn y văn, đặc trưng bởi các tế bào u hướng mạch và hủy mạch, dương với CD3, CD56 và EBER-ISH. Tiên lượng của phân nhóm này rất xấu, khác với các phân nhóm thường gặp. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy các đặc điểm mô bệnh học và hóa mô miễn dịch đặc trưng của từng phân nhóm của lymphôm tế bào T nguyên phát ở da ở Việt Nam, đồng thời khi kết hợp với biểu hiện sang thương da có thể giúp phân biệt các phân nhóm này với nhau.
To determine some histopathological and immunohistochemical features of primary cutaneous T-cell lymphoma and primary cutaneous T-cell lymphoproliferative disorder according to the 2018 update of the World Health Organization and the European Organization for Research and Treatment of Cancer for primary cutaneous lymphoma. Methods: a case series study with 39 cases of primary cutaneous T-cell lymphoma and primary cutaneous T-cell lymphoproliferative disorder in the University Medical Center at Ho Chi Minh City from 01/2018 to 02/2022. Results: we recorded 39 cases, which were divided into seven subgroups. Subcutaneous panniculitis-like T cell lymphoma is the most common, accounting for 35.8% of all cases. CD8-positive tumor cells rimming adipose tissues and a high Ki-67 index are important features of this subtype. Mycosis fungoides is the second most common subtype (28.6%) with CD3-positive epidermotropic tumor cells. The predominant phenotype was CD4+/CD8- (8/11 cases). The most common histological feature in mycosis fungoides is Pautrier’s microabscess, which accounts for 8/11 cases. Primary cutaneous anaplastic large cell lymphoma accounted for 15.4% of the cases with CD30- positive and ALK-negative large tumor cells. Extranodal NK/T-cell lymphoma, nasal type had a higher incidence than the literature and was characterized by tumor cells with angiocentricity and angiodestruction that were positive with CD3, CD56, and EBER-ISH. Unlike other common subtypes, this group had an extremely poor prognosis. Conclusion: The study showed that the distinctive histopathological and immunohistochemical features of each subtype of primary cutaneous T-cell lymphoma in Vietnam, when combined with data of skin lesions, could aid in the differentiation of these subtypes.
- Đăng nhập để gửi ý kiến