Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kiến thức của y tế thôn về bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường tuýp II: một nghiên cứu cắt ngang tại tỉnh Nam Định

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kiến thức của y tế thôn về bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường tuýp II: một nghiên cứu cắt ngang tại tỉnh Nam Định
Tác giả
Hoàng Thị Vân Lan; Lê Thị Huyền Trinh; Đỗ Minh Sinh
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
146-153
ISSN
2615-9589
Tóm tắt

Mô tả kiến thức của y tế thôn về bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường tuýp II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu điều tra cắt ngang định lượng được thực hiện trong năm 2020. Có 168 y tế thôn của 15 xã/phường thuộc tỉnh Nam Định tham gia nghiên cứu. Các số liệu được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp. Kết quả: Tỷ lệ đối tượng có kiến thức về các yếu tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp và đái tháo đường đạt từ 75%-97,6%. Có khoảng 80% y tế thôn nhận biết được già hóa dân số và thay đổi lối sống là hai trong các nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ hiện mắc bệnh. Tỷ lệ đối tượng có kiến thức đúng về ngưỡng chẩn đoán tăng huyết áp và đái tháo đường lần lượt là 70,8% và 78,6%. 100% các đối tượng nhận biết được hậu quả của bệnh là gây ra các biến chứng, tuy nhiên tỷ lệ nhận biết được hậu quả làm tăng gánh nặng lên hệ thống y tế và vai trò của việc quản lý bệnh trong nâng cao chất lượng cuộc sống còn ở mức thấp (4,8%; 14,9%; 23,2% và 23,8%). Kết luận: Các y tế thôn tại tỉnh Nam Định đã có những kiến thức cơ bản về bệnh THA và ĐTĐ. Nhóm kiến thức tốt nhất là kiến thức về các yếu tố nguy cơ gây bệnh, thấp nhất kiến thức về tầm quan trọng của hoạt động quản lý bệnh. Vẫn cần tổ chức các chương trình đào tạo bồi dưỡng thường xuyên có chất lượng cho y tế thôn, đồng thời với đó là việc rà soát thường xuyên hơn chương trình và nội dung đào tạo dành cho nhóm đối tượng này.