Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kỹ thuật và kết quả trung hạn của can thiệp nội mạch trong bệnh tắc, hẹp động mạch chủ chậu mạn tính

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kỹ thuật và kết quả trung hạn của can thiệp nội mạch trong bệnh tắc, hẹp động mạch chủ chậu mạn tính
Tác giả
Nguyễn Duy Tân; Huỳnh Ngọc Hạnh; Trần Thị Tuyết Mai; Đào Hồng Quân; Nguyễn Tấn Nguyên Khôi; Phạm Hữu Đức; Nguyễn Đỗ Nhân
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
CD10
Trang bắt đầu
299-304
ISSN
2354-0613
Tóm tắt

Bệnh lý tắc, hẹp động mạch chi dưới mạn tính thường gặp ở người lớn tuổi, có nhiều bệnh nền kèm theo. Bệnh nhân đến khám với các triệu chứng: Đau chân, tím đầu ngón chân, nhiễm trùng bàn chân, nặng hơn là nhiễm trùng nhiễm độc toàn thân gây tử vong. Thời gian gần đây, can thiệp nội mạch đã trở thành lựa chọn đầu tay trong điều trị bệnh lý tắc, hẹp động mạch chi dưới trên thế giới và tại Việt Nam, với ưu điểm gồm đường mổ ngắn, ít đau, tê tại chỗ, phù hợp với bệnh nhân lớn tuổi, có nhiều bệnh nền. Mục tiêu: Đánh giá kết quả can thiệp nội mạch trong điều trị bệnh tắc, hẹp động mạch chủ chậu có triệu chứng lâm sàng.Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Từ tháng 06/2020 đến tháng 04/2022, mô tả cắt ngang 56 ca can thiệp mạch nội mạch điều trị bệnh tắc, hẹp động mạch chủ chậu tại khoa Ngoại Tim mạch- Lồng ngực, Bệnh viện Thống Nhất. Kết quả: Đa số là tổn thương động mạch phức tạp thuộc TASC II, mức độ C (23%) và D (51%). Tầng động mạch tổn thương gồm tầng chủ chậu đơn thuần (23%), tầng chủ chậu kết hợp tầng đùi khoeo và/ hoặc dưới gối (77%). ABI trung bình trước và sau can thiệp lần lượt là 0.43 ± 0.3 đến 0.76 ± 0.29 (p<0.001). Thủ thuật thành công về kỹ thuật trong 54 ca (96,4%). Các biến chứng sau thủ thuật gồm: Xuất huyết nội, cắt cụt chi, suy thận cấp do cản quang. Tỉ lệ lưu thông mạch máu thì đầu tại 1 năm và 2 năm đạt 97,4% và 76,4%. Kết luận: Can thiệp nội mạch là phương pháp hiệu quả, ít xâm lấn trong điều trị bệnh động mạch chi dưới. Tuy nhiên cần có thêm nghiên cứu về kết quả dài hạn của can thiệp mạch chi dưới.

Abstract

Incidence of chronic arterial occlusive disease in lower limbs is high in elder patients. Patients’ s chief complains are intermittent claudication, foot ulcer or even systemic sepsis. Typically, treatment of chronic arterial disease in lower limbs is arterial bypass surgery, endarterectomy. However, these are invasive surgeries, requiring general or spinal anesthesia. Recently, endovascular intervention techniques are applied to the treatment with benefits such as: Local anesthesia, fewer complications, and feasible to elder patients with severe compromised disease. Objective: To determine the efficacy of, results of endovascular treatment in patients with symptomatic chronic aortoiliac occlusive disease. Methods: From June 2020 to April 2022, the prospective study was carried out on 56 cases with chronic aortoiliac occlusive disease, treated by PTA in Cardiovascular and Thoracic Department, Thong Nhat hospital. Results: Majority of lesions belong to TASC II C (23%) and D (51%). The artery lesions included simple aortoiliac artery (23%), aortoiliac combined with femoropopliteal and/ or infrapopliteal artery (77%). The ankle- brachial index before and after the intervention is respectively 0.43 ± 0.3 and 0.76 ± 0.29 (p<0.001). Overall, the technical success rate was 96,4%. The complications included internal bleeding (1,8%), limb amputation (7,1%), contrast- induced acute kidney injury (1,8%). The primary patency of revascularization in 1 and 2-year is respectively 97,4% và 76,4%. Conclusion: PTA is a feasible and effective procedure for treatment of lower limb artery disease. However, we need to increase the sample size and more study of long- term patency of PTA should be conducted.