Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Mối liên quan giữa nguyên nhân và kết cục nội viện của bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Mối liên quan giữa nguyên nhân và kết cục nội viện của bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim
Tác giả
Hoàng Văn Sỹ; Nguyễn Minh Kha; Trần Nguyễn Phương Hải; Đặng Tường Vi; Bùi Thị Kiều Nga; Nguyễn Nhật Tài
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
144-148
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nguyên nhân của bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim rất đa dạng. Hiện nay tại Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân và kết cục nội viện của bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim. Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan nguyên nhân và kết cục nội viện ở bệnh nhân tràn dịch màng ngoài tim. Đối tượng: Những bệnh nhân có bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim được chẩn đoán tại bệnh viện Chợ Rẫy trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2020. Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang mô tả, hồi cứu. Kết quả: Trong 10 năm, thu nhận 285 bệnh nhân có bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim, trong đó có 248 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình dân số nghiên cứu là 52,3 ± 18,0, trong đó nam giới có 153 bệnh nhân, chiếm 61,7%. Nguyên nhân tràn dịch màng ngoài tim thường gặp nhất lần lượt là do ác tính (48,4%), lao (21,0%), vô căn (10,5%) và tự miễn (7,3%), trong đó nguyên nhân do nhiễm trùng (viêm mủ màng ngoài tim) ít gặp với 4,8%. Trong nhóm tràn dịch màng ngoài tim do ác tính, nguyên nhân thường gặp là ung thư phổi (52,5%), u trung thất xâm lấn (13,3%) và có 20,8% trường hợp chưa tìm được ổ nguyên phát. Chỉ ghi nhận 25,8% bệnh nhân có tiền căn bệnh lý ác tính trong nhóm tràn dịch màng ngoài tim do ác tính. Tỉ lệ tế bào học dịch màng tim bất thường gặp trong nguyên nhân ác tính là 24,5%. Màu sắc đại thể chủ yếu là đỏ máu (64,4%), có sự khác biệt giữa hai nhóm nguyên nhân (p=0,0001). Kết cục xấu nội viện gồm tử vong hoặc nặng xin về giữa hai nhóm nguyên nhân ác tính và không do ác tính không có sự khác biệt (p = 0,12), nhưng tỉ lệ chèn ép tim cấp trong nhóm ác tính cao hơn nhóm không do ác tính với tỉ lệ lần lượt 30% và 18,0%, p = 0,026. Kết luận: Nguyên nhân tràn dịch màng ngoài tim thường gặp nhất là do ác tính, trong đó ung thư phổi chiếm ưu thế. Tuy kết cục nội viện là không khác biệt nhưng tỉ lệ chèn ép tim cấp cao hơn ở nhóm ác tính so với nhóm không ác tính.

Abstract

Pericardial effusion can be caused by a variety of causes. In Viet Nam, there are few studies which survey causes and in-hospital outcomes in hospital of pericardial effusion. Objective: To survey the relationship between causes and in-hospital outcomes in patients with pericardial effusion. Materials: Patients who diagnosed pericardial effusion at Cho Ray Hospital from January 2010 to December 2020. Methods: Retrospective cross-sectional descriptive study. Results: In 10 years, we collected 285 patients with pericardial effusion, there were 248 patients who met the inclusion criteria in our study. The median age of the study population was 52,3 ± 18,0 years old, and the male gender had 153 patients (61,7%). The most frequent etiologies were malignancy (48.4%), tuberculosis (21.0%), idiopathic (10.5%) and autoimmune diseases (7.3%), whereas bacterial causes were uncommon (4.8%). In the group of malignant pericardial effusion, the most frequent malignancies originated from the lung (52.5%), invasive mediastinal tumors (13.3%) and there was many cases (20.8%) that primary origins were unknown. Only 25.8% of patients had a history of malignancy in the group of malignant pericardial effusion. The rate abnormal cytology in pericardial effusion was only 24.5% in malignant group. The pericardial fluid appearance was bloody in 64.4%, and there was statistically significant difference between the 2 groups (p=0.0001). The bad short-outcomes (death or very servere) in hospital of malignant group were similar to non-malignant group (p=0.12) but the rate of acute cardiac tomponade was higher in maligant group (30.0% vs 18.0%, p = 0.026). Conclusion: The most frequent etiology of pericardial effusion at Cho Ray Hospital was maligancy. In maligant group, the most predonimant cause was lung cancer. The short worsed outcomes in hospital of malignant group were similar to non-malignant group but the rate of acute cardiac tamponate was higher.