
Nghiên cứu tiến cứu, ngẫu nhiên, có so sánh 100 bệnh nhân phẫu thuật chi trên từ 1/3 giữa xương cánh tay trở xuống, bằng phương pháp gây tê ĐRTKCT dưới hướng dẫn siêu âm kết hợp máy kích thích thần kinh cơ chia ngẫu nhiên thành hai nhóm. Nhóm I: gây tê với levobupivacain 0,5% liều lượng 2mg/kg. Nhóm II: gây tê với levobupivacain 0,375% liều lượng 2mg/kg. Theo dõi thời gian đạt ức chế cảm giác, đạt ức chế vận động, thời gian kéo dài cảm giác, vận động và giảm đau sau phẫu thuật. Theo dõi tần số tim, huyết áp, tần số thở, SpO2 và thang điểm VAS vào các thời điểm 0, 4, 8, 12, 16, 20, 24 giờ sau phẫu thuật, sự hài lòng của bệnh nhân và các tác dụng không mong muốn ở cả hai nhóm. Kết quả: Tỷ lệ thành công gây tê ĐRTKCT ở hai nhóm là 100%. Thời gian đạt được ức chế cảm giác và ức chế vận động trung bình nhóm I (9,34 ± 1,61 và 12,94 ± 1,68) phút ngắn hơn so với nhóm II (14,48 ± 2,03 và 17,70 ± 1,73) phút. Thời gian ức chế vận động, ức chế cảm giác và giảm đau sau phẫu thuật của nhóm I (8,50 ± 0,87; 10,04 ± 1,09 và 11,64 ± 1,50) giờ ngắn hơn so với nhóm II (10,46 ± 1,16; 12,37 ± 1,24 và 14,22 ± 1,90) giờ. Tần số tim, huyết áp, tần số thở, SpO2 ở bệnh nhân thường ít biến đổi trong và sau phẫu thuật. Trong nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp nào xảy ra biến chứng ở cả hai nhóm. Kết luận: Gây tê ĐRTKCT đường trên đòn dưới hướng dẫn siêu âm kết hợp máy kích thích thần kinh cơ, nhóm gây tê levobupivacain 0,5% hiệu quả tốt hơn nhóm gây tê levobupivacain 0,375% trong phẫu thuật.
The prospective study, randomized, compared 100 patients who had upper limb surgery of 1/3 of the middle of the arm bone or less, using brachial plexus anesthesia under ultrasound guidance combined with stimulator neuromuscular were randomly divided into two groups. Group 1: anesthesia with levobupivacaine 0.5% dose 2mg/kg. Group 2: anesthesia with levobupivacaine 0.375% dose 2mg/kg. Monitor the time of achievement of sensory suppression, achievement of motor inhibition, duration of sensory prolongation, motor and pain relief after surgery. Monitor heart rate, blood pressure, respiratory rate, SpO2 and VAS score at 0, 4, 8, 12, 16, 20, 24 hours after surgery, patient satisfaction and effects undesirable in both groups. Results: The brachial plexus anesthesia success rate in the two groups was 100%. Mean time to achieve sensory and motor inhibition in the group I (9.34 ± 1.61) and 12.94 ± 1.68) minutes shorter than the group II (14.48 ± 2.03 and 17.70 ± 1.73) minutes. Time of motor block, sensory block and postoperative analgesia of group I (8.50 ± 0.87; 10.04 ± 1.09 and 11.64 ± 1.50) hours shorter than the group II (10.46 ± 1.16; 12.37 ± 1.24 and 14.22 ± 1.90) hours. Heart rate, blood pressure, respiratory rate, SpO2 in patients usually vary little during and after surgery. In our study, there were no cases of complications in both groups. Conclusion: Anesthesia of the brachial plexus upper clavicle line under ultrasound guidance combined with neuromuscular stimulator, the levobupivacaine anesthetic group 0.5% was better effective than the levobupivacaine anesthesia group 0.375% in surgery
- Đăng nhập để gửi ý kiến