
Xác định đặc điểm phân nhóm phân tử (PNPT) và khảo sát mối liên quan giữa PNPT và các đặc điểm giải phẫu bệnh trong ung thư vú ở Việt Nam và ở Ý.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 88 bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị ung thư biểu mô tuyến vú xâm nhập (UTBM) tại Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế và Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 4/2016 đến tháng 4/2017 và 235 bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị UTBM tuyến vú xâm nhập tại Bệnh viện Đại học Sassari, Ý từ tháng 1/2016 đến tháng 12/2016. Các bệnh nhân được làm xét nghiệm hóa mô miễn dịch (HMMD) với 4 dấu ấn ER, PR, HER2, Ki67 và làm xét nghiệm lai tại chỗ miễn dịch huỳnh quang (FISH) đối với các trường hợp có kết quả HER2 (2+)/ HMMD. Kết quả: Ung thư vú ở Việt Nam có tỷ lệ phân nhóm Lòng ống B (LB) cao nhất 37,5%, tiếp sau đó là phân nhóm HER2 (22,7%), phân nhóm bộ ba âm tính chiếm 21,6%, phân nhóm Lòng ống A (LA) chiếm tỷ lệ thấp nhất (18,2%). Ngược lại ung thư vú ở Ý có tỷ lệ phân nhóm LA cao nhất (54%), LB chiếm 34,5%, bộ ba âm tính chiếm 10,6%, phân nhóm HER2 có tỷ lệ rất thấp (0,9%). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa PNPT và các đặc điểm giải phẫu bệnh như độ mô học, tình trạng di căn hạch nách, giai đoạn bệnh trong ung thư vú ở cả hai nhóm Việt nam và Ý (p<0,005). Phần lớn các khối u ở Việt nam và Ý thuộc phân nhóm LA có độ mô học thấp, ở giai đoạn sớm của bệnh và chưa có di căn hạch nách. Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa PNPT và kích thước khối u ở nhóm ung thư vú Việt Nam. Ngược lại ở Ý, mối liên quan này là có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
To determine the molecular subtypes and correlation between molecular subtypes and histopathological features in breast cancer in Vietnam and Italy. Material and method: 88 patients with invasive breast carcinoma (BC) in both Hue Central Hospital and Hue University Hospital in Vietnam during 1 year from April 2016 to April 2017 as well as 235 patients from the same category of women in Sassari University Hospital, Italy during the year 2016 were collected. All patients were examined for immunohistochemistry (IHC) with four markers ER, PR, HER2, and Ki67. The immunofluorescence in situ hybridization (FISH) test was applied for cases with HER2 (2+)/ IHC. Results: Breast cancer in Vietnam had the highest Luminal B (LB) rate, at 37.5%, followed by HER2 enrich (22.7%) and triple-negative breast cancer accounting for 21.6%. Luminal A (LA) accounted for the lowest proportion (18.2%). In contrast, breast cancer in Italy has the highest rate of Luminal A (54%), LB accounted for 34.5%, triple-negative occupied 10.6% and HER2 enrichment has a very low rate (0.9%). There was a statistically significant correlation between molecular subtypes and pathological features such as histologic grade, axillary lymph node, and stage of disease in both Vietnamese and Italian groups (p<0.005). Most breast cancers in Vietnam and Italy belong to the Luminal A with low histologic grade, early-stage disease, and no metastasis. No statistically significant association was found between molecular subtypes and tumor size in the Vietnamese breast cancer group. By contrast, this association was statistically significant with p<0.05 in Italy. Conclusion: There is a significant difference in the molecular subtypes and the correlation between molecular subtypes and histopathological features between Vietnamese and Italian breast cancers. The two more common subtypes in Vietnam are LB and HER2, while in Italy they are LA and LB. The rate of HER2 subtypes in Vietnam is much higher than in Italy
- Đăng nhập để gửi ý kiến