
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và mô tả tình hình sử dụng các thuốc chống thấp làm thay đổi diễn tiến bệnh (DMARDs) trong điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 58 bệnh nhân Viêm khớp dạng thấp được điều trị tại khoa Nội Thận - Cơ xương khớp - Bệnh viện Trung ương Huế. Kết quả: Tỷ lệ dùng các liệu pháp DMARDs gồm csDMARDs đơn trị liệu, csDMARDs đa trị liệu, bDMARDs + csDMARDs và bDMARDs đơn trị liệu lần lượt là 44,83%; 10,34%; 39,65% và 5,18%. Trong đó, Methotrexate là csDMARD được dùng phổ biến nhất với tỷ lệ 100% ở cả 3 liệu pháp có sử dụng csDMARD. Liều Methotrexate trung bình (mg/tuần) được sử dụng ở các liệu pháp csDMARDs đơn trị liệu, csDMARDs đa trị liệu và bDMARDs + csDMARDs không có sự khác biệt với liều lần lượt là 10,96 ± 1,74; 10,42 ± 1,02 và 11,41 ± 1,66 (p > 0,05). Có 8,62% bệnh nhân xuất hiện tác dụng phụ trong quá trình điều trị, trong đó chủ yếu là các tác dụng phụ đường tiêu hóa. Điểm DAS28 trung bình ở nhóm bệnh nhân được điều trị phối hợp giữa bDMARDs + csDMARDs thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân sử dụng csDMARDs đơn trị liệu, bDMARDs đơn trị liệu hay csDMARDs đa trị liệu với giá trị lần lượt là 3,62 ± 1,44; 6,58 ± 0,71; 4,24 ± 1,02; 6,79 ± 0,47 (p < 0,05). Có 15,52% bệnh nhân đạt mục tiêu điều trị (DAS28 < 2,6), trong đó tỷ lệ đạt mục tiêu điều trị ở nhóm điều trị bDMARDs + csDMARDs cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân sử dụng csDMARDs đơn trị liệu, bDMARDs đơn trị liệu và csDMARDs đa trị liệu (p < 0,05). Kết luận: Methotrexate là csDMARD được sử dụng phổ biến nhất trong điều trị viêm khớp dạng thấp. Trong các liệu pháp điều trị, Methotrexate thường còn được sử dụng ở liều thấp. Liệu pháp kết hợp giữa bDMARDs và csDMARDs hiệu quả hơn trong việc cải thiện mức độ hoạt động bệnh và tỷ lệ đạt mục tiêu điều trị cao hơn so với các liệu pháp khác. Các tác dụng phụ xuất hiện với tỷ lệ thấp trong quá trình dùng DMARDs.
A descriptive cross-sectional study on 58 patients with rheumatoid arthritis for treatment at the Nephrology – Rheumatology department of Hue Central Hospital. Results: In current study, the proportion of using DMARDs therapy including csDMARDs monotherapy, csDMARDs multi-therapy, combination therapy of csDMARDs and bDMARDs, bDMARDs monotherapy was respectively 44,83%; 10,34%; 39,65% and 5,18%. Of which, Methotrexate (MTX) was the most commonly used csDMARDs with a proportion of 100% in all 3 therapies using csDMARDs. The mean weekly dose of MTX used in csDMARDs monotherapy, csDMARDs multi-therapy, csDMARDs + bDMARDs was not statistically significant difference with doses of 10.96 ± 1.74; 10.42 ± 1.02 and 11.41 ± 1.66, respectively (p > 0.05). 8,62% of patients in the study experienced side effects during treatment with DMARDs, mainly gastrointestinal side effects. The mean DAS28 score in the group of patients used the combination of bDMARDs and csDMARDs was lower with statistically significant difference than in the group of patients using csDMARDs monotherapy, bDMARDs monotherapy or csDMARDs multi-therapy (The mean DAS28 in these groups of patients was 3.62 ± 1.44; 6.58 ± 0.71; 4.24 ± 1.02; 6.79 ± 0.47 respectively with p < 0.05). There were 15.52% of patients reaching the treatment target (DAS28 < 2.6), of which, the proportion of achievement of treatment target in the group of patients receiving the combination of bDMARDs and csDMARDs was higher with statistically significant difference than in the group of patients using csDMARDs monotherapy, bDMARDs monotherapy or csDMARDs multi-therapy (p < 0.05). Conclusion: MTX was the most commonly DMARD in the treatment of rheumatoid arthritis. In therapeutic therapies, MTX is usually used in low doses. Combination therapy of bDMARDs and csDMARDs was more effective in improving disease activity and the proportion of treatment achievement target higher than other therapies. Side effects occurred at low rates during the use of DMARDs.
- Đăng nhập để gửi ý kiến