
Mô tả đặc điểm hình ảnh học viêm phổi do SARS-CoV-2 sau điều trị 12 tháng trên phim CLVT ngực. Xác định mối liên hệ giữa một số đặc điểm lâm sàng, xét nghiệm D-dimer với tổn thương nhu mô phổi do SARS-CoV-2 trên phim CLVT ngực của bệnh nhân sau điều trị 12 tháng. Đối tượng, phương pháp: Mô tả hàng loạt ca. Đối tượng: BN viêm phổi nặng do SARSCoV- 2 còn sống và được điều trị tại BV Trưng Vương từ 1/6/2021 đến 31/10/2021; đồng ý tham gia tái khám sau 12 tháng khỏi bệnh. Chúng tôi sử dụng thang điểm bán định lượng để ước tính vùng phổi tổn thương, mỗi thùy phổi được đánh giá từ 0 - 5 điểm. Tổng điểm CT là tổng điểm của tất cả các thùy phổi (0 - 25 điểm). Kết quả: 62 BN tham gia nghiên cứu (29 nam, 33 nữ); độ tuổi trung bình 51,82. Kết quả chụp CLVT ngực cho thấy 56/62BN (90%) vẫn còn tổn thương nhu mô phổi, gồm có: kính mờ 74,19%; dải nhu mô 70,96%; tổn thương dạng lưới 33,87%; tổn thương đường cong dưới màng phổi 12,9%; khí phế thũng 9,67%; giãn phế quản 4,83%; tổn thương dạng nốt 4,83%; tổn thương đông đặc 3,22%. Tổn thương kính mờ ở BN nữ cao hơn nam giới có ý nghĩa (p = 0,04). Có mối liên hệ giữa triệu chứng ho với tổn thương kính mờ trên CLVT ngực (p = 0,004). Điểm CT của thùy dưới hai phổi cao hơn có ý nghĩa so với các thùy còn lại. Giá trị D-dimer ở nhóm BN có tổn thương phổi (n = 56) cao hơn nhóm không có tổn thương phổi (n = 6); tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Nghiên cứu thấy rằng những tổn thương nhu mô phổi trên CLVT ngực vẫn còn tồn tại sau 12 tháng ở BN viêm phổi nặng do COVID-19. Tổn thương kính mờ và dải nhu mô chiếm tỷ lệ cao nhất. Các tổn thương hiện diện chủ yếu ở thùy dưới của hai phổi. Chúng tôi ghi nhận có mối liên hệ giữa tổn thương kính mờ với giới tính nữ và triệu chứng ho.
To characterize patterns and frequencies of chest CT abnormalities 12 months after COVID-19 pneumonia; and determine the association between clinical symptoms, D-dimer value and pulmonary abnormalities on chest CT scan. Materials and Methods: Case series study. Severe COVID-19 pneumonia patients had treated at Trung Vuong Hospital between June 01, 2021 and October 31, 2021; agreed to receive the follow - up tests after 12 months. A semi - quantitative scoring system was used to quantitatively estimate the pulmonary involvement of all these abnormalities on the basis of the area involved; each of the 5 lung lobes was visually scored from 0 to 5; the total CT score was the sum of the individual lobar scores and ranged from 0 to 25. Results: 62 participants (mean age 51,82; 29 male) were assessed. In 56 of 62 (90%) participants, CT abnormalities were observed: ground - glass opacification 74,19%; parenchymal band 70,96%; reticular pattern 33,87%; subpleural curvilinear 12,9%; emphysema 9,67%; bronchodilation 4,83%, nodular 4,83%; consolidation 3,22%. The rate of ground - glass opacification in female was significantly higher than in male. There was an association between cough and ground - glass opacification. The CT score of the lower lobes was significantly higher than the others. The D-dimer value in patients with abnormal chest CT (n = 56) was higher than patients with normal chest CT (n = 6); however, the difference is not statistically significant. Conclusion: CT abnormalities were remained at 12 months after COVID-19 pneumonia. Ground - glass opacification and parenchymal band account for the highest percentage. Lesions were distributed mainly in the lower lobes. Female, cough were associated with ground - glass opacification.
- Đăng nhập để gửi ý kiến