
Tỉ lệ bệnh nhân cần dự phòng nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch. Khảo sát mối liên quan giữa nguy cơ thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch trên bệnh nhân tim mạch với các yếu tố nhân trắc xã hội, lâm sàng và cận lâm sàng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả có phân tích 124 bệnh nhân nhập viện tại khoa Nội Tim mạch bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ từ tháng 1/2024 đến hết tháng 3/2024. Kết quả: Từ tháng 1/2024 đến tháng 3/2024 có 124 bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu. Trong đó nữ giới có 72 bệnh nhân (chiếm 58%). Tuổi trung bình là 66,3 ± 18,1 tuổi. Có 57,3% bệnh nhân có nguy cơ TTHKTM cao (Padua ≥ 4 điểm). Các yếu tố nguy cơ tim mạch như: hút thuốc lá, béo phì và lý do nhập viện như: khó thở, đau ngực, mệt cũng được xem là yếu tố dẫn đến nguy cơ TTHKTM. Các yếu tố xuất hiện phổ biến trong thang điểm Padua lần lượt là: Bất động (57,3%), suy tim hoặc suy hô hấp (55,6%), tuổi ≥ 70 (51,6%), nhiễm trùng cấp (45,2%), nhồi máu cơ tim cấp (12,9%). Những bệnh nhân mắc đái tháo đường, tăng huyết áp, suy tim, COPD có nguy cơ mắc TTHKTM cao hơn những bệnh nhân không mắc lần lượt là: Đái tháo đường (OR=3,2; p=0,002); Tăng huyết áp (OR=2,67; p=0,009); Suy tim (OR=3,6; P=0,001); COPD (OR=3; p=0,036). Chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa phân suất tống máu (EF), các yếu tố đông máu (APTT, PT, INR) với nguy cơ TTHKTM. Kết luận: Trên bệnh nhân điều trị nội trú tại khoa Nội tim mạch có nguy cơ cao mắc TTHKTM theo thang điểm đánh giá PADUA. Vì vậy, việc dự phòng sớm cần được chú trọng và nâng cao trong quá trình điều trị của bệnh nhân.
Proportion of patients requiring prevention of risk of venous thromboembolism. Investigate the relationship between the risk of venous thromboembolism in cardiovascular patients with sociometric, clinical and paraclinical factors. Methods: Cross-sectional descriptive analysis of 124 patients hospitalized at the Department of Cardiology, Can Tho Central General Hospital from January 2024 to the end of March 2024. Results: From January 2024 to March 2024, 124 patients were selected for the study. Among them, there are 72 patients (58%). The average age was 66.3 ± 18.1 years. There are 57.3% of patients at high risk of VTE (Padua ≥ 4 points). Cardiovascular risk factors such as smoking, obesity and reasons for hospitalization such as shortness of breath, chest pain, fatigue is also considered a factor leading to the risk of VTE. Commonly appearing factors in the Padua scale are: Immobility (57.3%), heart or respiratory failure (55.6%), age ≥ 70 (51.6%), acute infection (45.2%), acute myocardial infarction (12.9%). Patients with diabetes, hypertension, heart failure, and COPD have a higher risk of VTE than patients without: Diabetes (OR=3.2; p=0.002); Hypertension (OR=2.67; p=0.009); Heart failure (OR=3.6; P=0.001); COPD (OR=3; p=0.036). No statistically significant difference was found between ejection fraction (EF), coagulation factors (APTT, PT, INR) and the risk of VTE. Conclusion: Inpatients at the Department of Cardiology are at high risk of VTE according to the PADUA assessment scale. Therefore, early prevention needs to be emphasized and enhanced during the patient's treatment process.
- Đăng nhập để gửi ý kiến