Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Phẫu thuật kết xương tam giác cho mất vững cột sống – Khung chậu do chấn thương: Báo cáo chùm ca bệnh liên tiếp

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Phẫu thuật kết xương tam giác cho mất vững cột sống – Khung chậu do chấn thương: Báo cáo chùm ca bệnh liên tiếp
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
CD
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật cho những trường hợp mất vững cột sống – khung chậu bằng phương pháp cố định, kết xương tam giác. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: hồi cứu 25 ca bệnh liên tiếp được chẩn đoán mất vững cột sống – khung chậu nhập viện và được phẫu thuật bằng phương pháp cố định kết xương tam giác tại bệnh viện đa khoa Xanh Pôn tronng thời gian từ tháng 7/2018 đến hết tháng 4/2022. Một số các thông tin lâm sàng, cận lâm sàng về bệnh nhân được ghi nhận lại. Các bệnh nhân được theo dõi ít nhất 03 tháng. Vị trí đường gãy vỡ xương được ghi nhân bằng cách phân loại Denis, Isler và Roy-Camille. Ngoài ra ghi nhận tổn thương khớp cùng chậu và cánh chậu 1 hoặc 2 bên. Tổn thương thần kinh được đánh giá bằng phân loại Gibbon’s trước và sau phẫu thuật, ở thời điểm thăm khám cuối phân loại Majeed được chúng tôi sử dụng để đánh giá chức năng sinh hoạt của bệnh nhân hàng ngày. Những thông tin sau cũng được ghi nhận trong nghiên cứu: giới, tuổi, nguyên nhân tai nạn, tổn thương phối hợp, loại hình phẫu thuật, các biến chứng và cơ chế chấn thương. Kết quả: có tất cả 19 bệnh nhân nam và 6 bệnh nhân nữ, có độ tuổi trung bình là 41.2 ± 15.7 năm (dao động từ 16 – 73 năm), trong đó 7 trường hợp do tai nạn ngã cao, 18 trường hợp do tai nạn giao thông liên quan đến mô tô. Theo phân loại Denis, có 11 trường hợp tổn thương xương ở vùng I, 7 trường hợp tổn thương ở vùng II và 7 trường hợp tổn thương vùng III. Cụ thể hơn theo Isler, có 2 trường gợp type I, 3 trường hợp type II và 2 trường hợp type III. Với những ca bệnh có tổn thương vùng 3 Denis, phân loại Roy-Camille như sau: 2 trường hợp type I, 3 trường hợp type II và 2 trường hợp type III. Kèm theo, có 6 trường hợp tổn thương khớp cùng chậu cả 2 bên và 11 trường hợp tổn thương khớp cùng chậu 1 bên. Tất cả các bệnh nhân đều được theo dõi trong thời gian trung bình 23.1 ±14.3 tháng (từ 3 -47 tháng). Ở lần thăm khám cuối cùng, theo phân loại Majeed, có 15 trường hợp kết quả rất tốt, 6 trường hợp kết quả tốt, 3 trường hợp trung bình và 01 trường hợp xấu. Điểm phân loaị tổn thương thần kinh theo Gibbon thay đổi có ý nghĩa thống kê ở 2 thời điểm trước và sau mổ (1.2 ± 0.2 và 0.5 ± 0.1, khác biệt có ý nghĩa thống kê (t = 2.19, P < 0.05). Trong số các ca báo cáo, 3 trường hợp cần can thiệp nút cầm máu động mạch chậu trước mổ, 5 trường hợp trong đó mắc phải nhiễm khuẩn vết mổ và chỉ duy nhất một bệnh nhân cần tái phẫu thuật làm sạch.

Abstract

To evaluate the clinical outcomes of traumatic spinopelvic instability (TSI) treated with triangular osteosynthesis. Materials and methods: 25 consecutive patients of TSI were admitted to our hospital and included in the study from July 2018 to April 2022, and the medical records of patients were reviewed retrospectively. Patients were followedup for at least 03 months. Fracture lines were evaluated using Denis, Isler and Roy-Camille classification. Neuro-impairment was scored using Gibbon’s classification and the clinical outcome of fracture was evaluated with Majeed function assessment at last follow-up. The following data were also ascertained from the patient’s medical records: gender, age, etiology, associated injuries, level of surgery, type of surgery, complications and trauma mechanism. Results: There were 19 men and 6 women with an average age of 41.2 ± 15.7 years (range, 16 – 73 years). A total of 7 cases were caused by falling, and 18 cases were caused by traffic accident. All sacral fractures had associated injuries. According to Denis classification, there were 11 cases of zone I, 7 cases of zone II and 7 cases of zone III. According to Isler’s classification, there were 2 case of type I, 3 cases of type II and 2 cases of type III. According to Roy– Camille classification, there were 2 case of type I, 3 cases of type II and 2 cases of type III. Sacro-iliac joint dissociation: there were 6 cases injured bilaterally and 11 cases injured unilaterally. Triangular osteosynthesis was applied for all patients with 14 cases bilaterally and 11 cases unilaterally. All patients were followed up continuously within an average of 23.1 ±14.3 months (range, 3 – 47months). According to the Majeed function evaluation, 15 cases were classified as excellent, 6 cases as good, 3 cases as fair, 1 case as bad. The average Gibbons score changed from 1.2 ± 0.2 preoperatively to 0.5 ± 0.1 postoperatively, which had a significant difference (t = 2.19, P < 0.05). There were 3 of 25 cases needed internal pelvic arterial preop-embolization. 5 cases of all suffered from surgical site infection, but only 1 patient needed debridement re-operatively.