
So sánh hiệu quả khởi mê và thoát mê khi gây mê theo nồng độ đích giữa hai phương pháp ET – control sevoflurane và TCI – propofol dưới chỉ dẫn của điện não số hoá. Phương pháp: Nghiên cứu bao gồm 60 bệnh nhân chia thành 2 nhóm. Nhóm 1 (n = 30) sử dụng phương pháp gây mê theo nồng độ đích ET Control Sevoflurane trên máy mê Aisys CS2 , nhóm 2 (n = 30) sử dụng gây mê theo nồng độ đích TCI Propofol trên bơm tiêm điện hệ thống mở Terumo. Kết quả nghiên cứu: Thời gian mất ý thức của bệnh nhân nhóm 1 (54.9 ± 11.2) nhanh hơn nhóm 2 (72.2 - ± 6.0), thời gian chờ đặt ống NKQ có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (130.6 ± 9.7 so với 131.2 - ± 11.7). Thời gian thoát mê, nhóm 1 nhanh hơn so với nhóm 2 (179,6 ± 6,1 so với 260,1 ± 5,4). Tại thời điểm bệnh nhân mất tri giác (nhóm 1 SE = 68,2 ± 1,5 nhóm 2 SE = 68,3 ± 0,9) tương ứng với giác trị MAC = 1,7 cao nhất trong thời điểm gây mê. Tại thời điểm đặt ống NKQ (nhóm 1 SE = 40,7 ± 0,9, nhóm 2 SE = 40,7 ± 1.2) tương ứng với giá trị Ce = 3.8 cao nhất trong các thời điểm gây mê. Giai đoạn thoát mê các trị số SE tăng lên dần bằng với giá trị lúc bệnh nhân tỉnh (SE lớn nhất ở thời điểm T12 có giá trị lần lượt 2 nhóm là 91,1 ± 0,3 và. 91,5 ± 0,3, tương ứng với đó giá trị MAC và Ce giảm dần và đạt giá trị thấp nhất trong các thời điểm gây mê. Kết luận: Dưới chỉ dẫn của điện não số hoá ET Control là một chương trình gây mê theo nồng độ đích của thuốc mê bốc hơi có tác dụng khởi mê và thoát mê hiệu quả hơn.
To compare the effect of induction and release of anesthesia under anesthesia according to the target concentration between the two methods of ET - control sevoflurane and TCI - propofol under the guidance of digitized EEG. Methods: The study included 60 patients divided into 2 groups. Group 1 (n = 30) used ET Control Sevoflurane target anesthesia on an Aisys CS2 anesthesia machine, group 2 (n = 30) used TCI Propofol target concentration anesthesia on an open-system electric syringe Terumo. Results: The time to lose consciousness of group 1 patients (54.9 ¬ ± 11.2) was faster than group 2 (72.2 ± 6.0), waiting time for intubation had no statistically significant difference (130.6 ± 9.7 versus 131.2 ± 11.7). Time out of anesthesia, group 1 was faster than group 2 (179.6 ± 6.1 versus 260.1 ± 5.4). At the time the patient lost consciousness (group 1 SE = 68.2 ± 1.5 group 2 SE = 68.3 ± 0.9) corresponding to the highest MAC value = 1.7 at the time of anesthesia. At the time of intubation (group 1 SE = 40.7 ± 0.9, group 2 SE = 40.7 ± 1.2) corresponding to the highest Ce = 3.8 value in the time of anesthesia. In the period of recovery from anesthesia, the SE values gradually increased to the value when the patient was awake (the maximum SE value at T12 time was 91.1 ± 0.3 and 91.5 ± 0, respectively. 3, respectively, the MAC and Ce values decrease gradually and reach the lowest value in the time of anesthesia Conclusion: Under the guidance of digitized EEG, ET Control is a program of anesthesia according to the target concentration of ET Control. Volatile anesthetics are more effective in induction and release of anesthesia.
- Đăng nhập để gửi ý kiến