Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

So sánh phục hồi lưu thông ruột theo kiểu functional cải biên với kiểu overlap trong phẫu thuật nội soi hoàn toàn cắt toàn bộ dạ dày do ung thư

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
So sánh phục hồi lưu thông ruột theo kiểu functional cải biên với kiểu overlap trong phẫu thuật nội soi hoàn toàn cắt toàn bộ dạ dày do ung thư
Tác giả
Võ Duy Long; Trần Quang Đạt; Nguyễn Viết Hải; Đặng Quang Thông; Đoàn Thuỳ Nguyên; Nguyễn Năm Thắng; Nguyễn Hoàng Bắc
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
259-263
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Phục hồi lưu thông tiêu hoá sau phẫu thuật nội soi cắt toàn bộ dạ có nhiều thách thức và bàn cãi. Chúng tôi cải biên kiểu nối thực quản – hỗng tràng functional theo hình chữ T. Nghiên cứu này nhằm so sánh kết quả ngắn và dài hạn giữa kiểu nối functional cải biên hình chữ T và phương pháp overlap sau phẫu thuật nội soi hoàn toàn cắt toàn bộ dạ dày do ung thư. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ, hồi cứu 84 bệnh nhân ung thư dạ dày được phẫu thuật phãu thuật nội soi hoàn toàn cắt toàn bộ dạ dày từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 10 năm 2020. Trong số đó, 40 bệnh nhân được nối thực quản – hỗng tràng theo kiểu functional cải biên, trong khi 44 bệnh nhân còn lại theo kiểu overlap. Kết quả ngắn hạn bao gồm các đặc điểm phẫu thuật, biến chứng sau phẫu thuật và tỷ lệ tử vong. Kết quả dài hạn bao gồm các biến chứng liên quan đến miêng nối và tình trạng dinh dưỡng sau 1 năm. Kết quả ung thư được đánh giá liên quan đến tỉ lệ sống còn toàn bộ (OS) và sống còn không bệnh (DFS) sau 1, 3 và 5 năm. Kết quả: Không có sự khác biệt đáng kể giữa functional cải biên hình chữ T và phương pháp overlap về kết quả sớm sau phẫu thuật như thời gian phẫu thuật, thời gian thực hiện miệng nối, thời gian trung tiện, tỉ lệ biến chứng chung và tỷ lệ tử vong, và thời gian nằm viện sau phẫu thuật. Tỉ lệ rò và hẹp miệng nối sau phẫu thuật cũng tương đương giữa 2 nhóm (5,0% và 2,6% so với 6,8% và 0,0%). Sự giảm cân, mức hemoglobin và albumin sau 1 năm sau phẫu thuật cũng tương đương. Tỷ lệ sống còn toàn bộ và không bệnh sau 5 năm cũng tương đương giữa hai nhóm (70% và 57% so với 51% và 41%,). Kết luận: Không có sự khác biệt đáng kể về kết quả phẫu thuật và sống còn dài hạn giữa kiểu nối functional cải biên hình chữ T và overlap. Kiểu nối functional cải biên hình chữ T có thể là một phương pháp thay thế cho phục hồi lưu thông ruột sau cắt toàn bộ dạ dày do ung thư.

Abstract

The functional end-to-end anastomosis (FEEA) and overlap methods for reconstruction after totally laparoscopic total gastrectomy (TLTG) are technically challenges. We developed a T-shaped FEEA to facilitate technique. This study aimed to compare the short- and long-term outcomes between the T-shaped FEEA and overlap methods after TLTG for gastric cancer (GC). Method: This cohort study enrolled 84 patients who underwent TLTG for GC using linear stapler for reconstruction between August-2015 and October-2020. Among them, 40 patients underwent FEEA, while 44 patients underwent overlap method. Short-term outcomes encompassed operative characteristics, postoperative morbidity, and mortality. Long-term outcomes included anastomosis-related complications and 1-year nutritional status. Oncologic outcomes were assessed regarding 1-, 3-, and 5- year overall survival (OS) and disease-free survival (DFS). Results: There were no significant differences between the T-shaped FEEA and overlap methods in terms of the early surgical outcomes such as operating time, time of performing anastomosis, time of the first flatus, overall morbidities and mortality, and postoperative hospital stays. The esophagojejunostomy leakage and stenosis rates were similar between the groups (5.0% and 2.6% vs. 6.8% and 0.0%, respectively). The changing of reduction in weight, hemoglobin level, and albumin after 1-year postoperation were equivalent. Five-year OS and DFS were comparable between the two groups (70% and 57% vs. 51% and 41%, respectively). Conclusions: There was no significant difference in surgical outcomes and long-term survival between the modified FEEA and overlap methods. The T-shaped FEEA may be an alternative method for reconstruction after TLTG for GC.