Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Thay đổi kiến thức tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Thay đổi kiến thức tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019
Tác giả
Lê Thị Hoa; Ngô Huy Hoàng
Năm xuất bản
2019
Số tạp chí
3
Trang bắt đầu
31-41
ISSN
2615-9589
Tóm tắt

Mô tả thực trạng kiến thức tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019 và đánh giá sự thay đổi kiến thức tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 sau Chương trình giáo dục sức khoẻ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Can thiệp có đối chứng và so sánh trước - sau được thực hiện trên 104 người bệnh đái tháo đường type 2, đang điều trị ngoại trú tại Phòng khám Nội tiết - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình từ 03/2019 đến 05/2019. Phân nhóm ngẫu nhiên 52 người bệnh vào nhóm nghiên cứu (nhận Chương trình giáo dục sức khoẻ của nghiên cứu) và 52 người bệnh vào nhóm chứng (nhận Hướng dẫn thông thường). Sử dụng cùng một bộ công cụ để đánh giá kiến thức ở các thời điểm trước can thiệp (T1), ngay sau can thiệp (T2) và 1 tháng sau can thiệp (T3) cho cả 2 nhóm. Kết quả Trước can thiệp, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kiến thức giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng, với điểm trung bình kiến thức theo thứ tự là 16,25 ± 3,86 so với 16,50 ± 3,97 (p>0,05). Có sự cải thiện rõ rệt về kiến thức ở nhóm nghiên cứu với điểm trung bình là 23,15 ± 2,47 điểm ngay sau Chương trình giáo dục sức khoẻ và duy trì ở 22,3 ± 2,22 điểm sau khi kết thúc Chương trình 1 tháng so với 16,25 ± 3,87 điểm trước can thiệp, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Trong khi ở nhóm đối chứng, có sự tăng điểm không đáng kể với 16,60 ± 3,81 điểm ở thời điểm T2 và 18,21 ± 3,62 điểm ở thời điểm T3 so với 16,50 ± 3,97 điểm ở thời điểm T1, (p>0,05). Phân loại kiến thức cũng cho thấy nhóm nghiên cứu có cải thiện rõ rệt với 100% người bệnh đạt kiến thức tốt ngay sau Chương trình giáo dục và duy trì ở 90,4% sau 1 tháng. Trong khi tỷ lệ này không thay đổi đáng kể ở nhóm đối chứng.

Abstract

To describe the reality of foot self-care knowledge among type 2 diabetic outpatients in Thai Binh General hospital in 2019 and to assess the changes in foot self-care knowledge of these patients after the health educational program. Method The interventional study design with control group and before - after comparison were conducted from 03/2019 to 05/2019. 104 type 2 diabetic outpatients were allocated into two groups, 52 patients received the study’s educational program and 52 other patients received the common instruction as the control group. The same prepared questionnaire was used to assess for both groups and time series. Results Before the intervention, no significant differerence was seen in the foot self-care knowledge between the research group and the control group with mean score of 16.25 ± 3.86 points and 16.50 ± 3.97 points, respectively (p>0,05). There was a significant improvement in the foot self-care knowledge of patients who received the study’s educational program immediately after the education (T2) with mean score of 23.15 ± 2.47 points and remained at 22.3 ± 2.22 points one month later (T3) in compared with 16.25 ± 3.86 points before the program (T1) (p<0,001). Meanwhile, the mean scores of knowledge within the patients of control group did not increase significantly from 16.50 ± 3.97 points at T1 to 16.60 ± 3.81 points at T2 then 18.21 ± 3,62 points at T3 (p>0,05). In the research group, the percentage of patients reached the good level of knowledge was 100% immediately after the educaional program and maintained at 90.4% after completing the education one month. But there was no considerable change in these percentages within the control group.