Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Tính an toàn của sinh thiết tuyến tiền liệt dưới hướng dẫn siêu âm qua ngã trực tràng tại Bệnh viện Bình Dân

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Tính an toàn của sinh thiết tuyến tiền liệt dưới hướng dẫn siêu âm qua ngã trực tràng tại Bệnh viện Bình Dân
Tác giả
Đỗ Anh Toàn; Phan Thành Thống; Nguyễn Đạo Thuấn; Lê Trọng Khôi; Nguyễn Ngọc Thái; Trang Võ Anh Vinh; Nguyễn Xuân Chiến; Nguyễn Văn Khoa; Nguyễn Thái Hoàng; Nguyễn Thị Thu Thủy; Huỳnh Thị Hoàng Oanh
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
SĐB
Trang bắt đầu
556-562
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Sinh thiết là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt (TTL). Trong đó sinh thiết ngã trực tràng đã trở thành phương pháp tiêu chuẩn trong 30 năm trở lại đây. Chúng tôi tổng kết 4098 trường hợp (TH) được sinh thiết dưới hướng dẫn của siêu âm qua ngã trực tràng nhằm hướng đến tỷ lệ phát hiện bệnh và các biến chứng sau sinh thiết TTL. 4098 trường hợp sinh thiết tuyến tiền liệt dưới hướng dẫn của siêu âm qua ngã trực tràng được thực hiện tại đơn vị Can thiệp mạch tiết niệu sinh dục từ 1/2018- 6/2022. Tiến hành hồi cứu hồ sơ, thu thập kết quả mô học, đánh giá biến chứng trong tuần đầu tiên sau sinh thiết. Độ tuổi trung bình là 71.7 ± 5.3. Kết quả mô học dương tính trong 1516 TH (37%). Sau sinh thiết có 327 TH (7,98%) số bệnh nhân (BN) có chảy máu hậu môn trực tràng, 492 TH(12%) có tiểu máu đại thể, 2 TH (0,04%) phải nhập viện truyền máu, 127 TH (3,1%) bị bí tiểu sau sinh thiết phải đặt sonde niệu đạo, 163 TH (3,98%) bị sốt sau sinh thiết, 12 TH (0,3%) nhiễm khuẩn huyết , 1 TH (0,02%) choáng nhiễm khuẩn, 1 TH (0,02%) dị ứng thuốc tê. Không có TH nào tử vong. Sinh thiết tuyến tiền liệt ngã trực tràng có tính an toàn cao. Các biến chứng có thể kiểm soát bằng cách sàng lọc đối tượng nguy cơ cao, kháng sinh, điều trị ổn định nhiễm khuẩn trước sinh thiết, sát khuẩn kỹ, thụt tháo trước sinh thiết, giảm đau tốt, kiểm soát đường đi kim sinh thiết và theo dõi sát bệnh nhân sau sinh thiết.