Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Tính khả thi của cách tiếp cận qua đoạn xa động mạch quay trái trong chụp và can thiệp mạch vành

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Tính khả thi của cách tiếp cận qua đoạn xa động mạch quay trái trong chụp và can thiệp mạch vành
Tác giả
Võ Thành Nhân; Nguyễn Minh Châu; Nguyễn Văn Dương; Trần Hồng Nhật; Đỗ Thị Út Tâm; Nguyễn Minh Trí; Phạm Ngọc Dung
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
1B
Trang bắt đầu
361-365
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Xác định tính khả thi và an toàn của cách tiếp cận qua đoạn xa ĐM quay trái trong chụp và can thiệp mạch vành. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 32 bệnh nhân được tiếp cận qua hõm lào trái tại bệnh viện Vinmec Central Park từ 3/2021 đến 12/2021. Chúng tôi ghi nhận thông tin bệnh nhân, thông tin thủ thuật và ghi nhận biến chứng sau thủ thuật. Kết quả: Trong số 32 bệnh nhân với độ tuổi trung bình là 66,7 ± 10,6 với nam giới chiếm 78%, kích thước ĐM quay trái là 2,81 ± 0,36 mm và đoạn xa ĐM quay trái là 2,53 ± 0,27 mm. Chúng tôi ghi nhận tỷ lệ tiếp cận thành công là 93,8%. Có 2 bệnh nhân bị co thắt mạch cần chuyển vị trí tiếp cận qua đoạn gần động mạch quay trái và động mạch quay phải đều thành công. Thời gian đâm kim trung bình: 5,37 ± 3,7 phút và tất cả bệnh nhân đều được chụp và can thiệp mạch vành thành công mà không thay đổi vị trí tiếp cận. Tỷ lệ biến chứng tụ máu mức độ EASY I là 13,3% và không cần can thiệp ngoại khoa, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào biến chứng xuất huyết hay tụ máu mức độ EASY II trở lên. Kết luận: Tiếp cận chụp và can thiệp mạch vành qua đoạn xa động mạch quay trái có tính khả thi và an toàn.

Abstract

The objective of this study was to determine the feasibility and safety of the left snuffbox approach for CAG and PCI. Methods: We performed a cross-sectional retrospective study of 32 adults who were accessed via left snuffbox at Vinmec Central Park hospital from March 2021 to December 2021. We recorded patient characteristics, procedural information and procedural complications. Results: A total of 32 individuals were eligible (average age: 66,7 ± 10,6; 78% males), the diameter of left radial artery was 2,81 ± 0,36 mm and left distal radial artery was 2,53 ± 0,27 mm. The success rate was 93,8%, two patients experienced spasm requiring crossover to left radial artery and right radial artery. The access time was 5,37 ± 3,7 min and all of patients were finished CAG and PCI without crossover to other approachs. Regarding vascular complication, mild hematoma (EASY I), not requiring surgery or transfusion, was 13,3%. There were no cases of moderate to severe hematoma or bleeding. Conclusions: In Viet Nam, CAG and PCI via left distal radial artery was safety and feasibility.