Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Tổng quan kết quả điều trị u nguyên bào tạo men bằng kỹ thuật nạo vét (Dredging)

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Tổng quan kết quả điều trị u nguyên bào tạo men bằng kỹ thuật nạo vét (Dredging)
Tác giả
Phạm Thị Thư; Đặng Triệu Hùng; Hoàng Ngọc Lan; Nguyễn Đức Hoàng; Tạ Thành Đồng; Trần Kiều Anh
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
277-283
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Tổng quan các nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị u nguyên bào tạo men bằng kĩ thuật nạo vét (Dredging). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tổng quan được thực hiện với tài liệu tìm kiếm từ cơ sở dữ liệu điện tử PubMed và ScienceDirect dạng tiếng Anh và tiếng Nhật. Câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là: Hiệu quả kĩ thuật nạo vét (Dredging) khi điều trị u nguyên bào tạo men xương hàm như thế nào? Kết quả: Có 12 nghiên cứu đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu. Có 5 nghiên cứu bàn về tính cân xứng của khuôn mặt sau điều trị, trong đó có 3 nghiên cứu đạt hiệu quả, với thời gian theo dõi sau điều trị trung bình từ 6 tháng – 5 năm. Tất cả 12 nghiên cứu đều bàn đến sự lành thương xương trên phim Xquang sau điều trị, trong đó có 7 nghiên cứu (58,3%) cho thấy sự hiệu quả điều trị. Vấn đề tê bì dị cảm có 6 nghiên cứu đề cập đến, trong đó có 4 nghiên cứu có biến chứng này sau điều trị và do vậy điều trị chưa đạt hiệu quả. Kết luận: Kỹ thuật nạo vét (Dredging) là một trong những phương pháp điều trị bảo tồn cho thấy kết quả điều trị thuận lợi. Biến chứng sau điều trị thường gặp nhất của kỹ thuật này là hiện tượng tê bì dị cảm vùng mặt, và phương pháp đòi hỏi thời gian theo dõi sau điều trị lâu dài để đảm bảo việc loại bỏ hoàn toàn khối u và giảm thiểu tối đa tỉ lệ tái phát. Do vậy, bác sĩ cần cân nhắc đặc điểm khối u và yếu tố của bệnh nhân trước điều trị, đặc biệt là mức độ hợp tác để đảm bảo hiệu quả điều trị lâu dài của kỹ thuật nạo vét.

Abstract

Overview of studies evaluating the results of ameloblastoma treatment using the Dredging technique. Subjects and methods: Overview research was conducted with documents searched from the electronic databases PubMed and ScienceDirect in English and Japanese. The research question is: “How effective is the Dredging technique when treating ameloblastoma of the jaw?” Results: There were 12 studies that met the criteria for inclusion in the study. There are 5 studies discussing facial symmetry after treatment, of which 3 studies were effective, with an average post-treatment follow-up period of 6 months - 5 years. All 12 studies discussed bone healing on X-rays after treatment, of which 7 studies (58.3%) showed treatment effectiveness. The issue of numbness and paresthesia was mentioned in 6 studies, of which 4 studies had this complication after treatment and therefore the treatment was not effective. Conclusion: Dredging is one of the conservative treatment methods that shows favorable treatment results. The most common post-treatment complication of this technique is facial numbness and paresthesia, and the method requires long-term post-treatment monitoring to ensure complete tumor removal and minimize the recurrence rate. Therefore, doctors need to consider tumor characteristics and patient factors before treatment, especially the level of cooperation to ensure long-term treatment effectiveness of the Dredging technique.