
Xác định các đặc điểm giải phẫu thần kinh gian cốt trước: vị trí, đường đi, sự phân nhánh và tương quan với một số mốc giải phẫu.Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, được thực hiện trên 26 mẫu được phẫu tích từ 13 xác tươi. Tay trái 13 mẫu, tay phải 13 mẫu. Từ tháng 2/2023 đến tháng 8/2023 tại Bộ môn Giải phẫu học và Bộ môn Giải phẫu bệnh – Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả và bàn luận: Sau khi bóc tách thần kinh gian cốt trước dọc theo vỏ bao thần kinh giữa về phía đầu gần đến điểm xa nhất có thể, chúng tôi ghi nhận 100% các mẫu phẫu tích đều có thể chọn được một điểm cắt (điểm C) trên thần kinh gian cốt trước sao cho hai sợi thần kinh chồng lấp nhau một khoảng 2 cm. Về mặt đại thể, nhánh thần kinh quay chi phối cơ duỗi cổ tay quay ngắn có kích thước tương đối nhỏ hơn so với thần kinh gian cốt trước trên cùng một mẫu tay phẫu tích. Tỉ lệ tổng diện tích các bó sợi giữa nhánh thần kinh quay chi phối cơ duỗi cổ tay quay ngắn và thần kinh gian cốt là 0,37 ± 0,14, dao động từ 0,18 đến 0,69. Tỉ lệ số lượng sợi trục giữa hai nhánh thần kinh là 0,31 ± 0,08, dao động từ 0,20 đến 0,49. Tỉ lệ mật độ sợi trục thần kinh là 0,90 ± 0,25, dao động từ 0,41 đến 1,29. Từ những dữ kiện trên, chúng tôi khẳng định tương quan về đặc điểm mô học giữa nhánh thần kinh quay chi phối cơ duỗi cổ tay quay ngắn và thần kinh gian cốt trước là phù hợp cho phẫu thuật chuyển thần kinh quay chi phối cơ duỗi cổ tay quay ngắn – thần kinh gian cốt trước. Kết luận: Từ kết quả nghiên cứu đã ủng hộ việc có thể sử dụng nhánh thần kinh quay chi phối cơ duỗi cổ tay quay ngắn chuyển đến thần kinh gian cốt trước, giúp phục hồi động tác cầm nắm của bàn tay trong các tổn thương thần kinh giữa đoạn cao hoặc thân dưới đám rối cánh tay không hồi phục.
Determine anatomical features of the anterior interosseous nerve, including location, courses, branching, and correlations with some anatomical landmarks. Methods: In this case-series study, the author describes 26 dissected samples from 13 fresh cadavers (13 dexter and 13 sinister). From February 2023 to August 2023 at the Department of Anatomy and Department of Pathology - Ho Chi Minh City University of Medicine and Pharmacy. Results: After dissecting the anterior interosseous nerve along the medial nerve sheath, toward the proximal end to the farthest possible point, we recorded that cut sight (point C) on the anterior interosseous nerve can be selected on 100% of dissected samples so that the two nerve fibers overlap by a distance of 2 cm. Macroscopically, the radial nerve branch that innervates the extensor radialis brevis muscle is relatively minor in size than the anterior interosseous nerve in the same dissected hand sample. The ratio of the total area of fiber bundles between the radial nerve branch that innervates the extensor carpi radialis brevis muscle and the interosseous nerve is 0.37 ± 0.14, ranging from 0.18 to 0.69. The ratio of axon numbers between two nerve branches was 0.31 ± 0.08, ranging from 0.20 to 0.49. The axon density ratio was 0.90 ± 0.25, ranging from 0.41 to 1.29. From the above data, we confirm that the correlation of histological features between the radial nerve branch that innervates the extensor carpi radialis brevis muscle and the anterior interosseous nerve is suitable for radial nerve transfer surgery that innervates the extensor carpi radialis brevis muscle – anterior interosseous nerve. Conclusion: The study's results support the possibility of using the radial nerve branch that controls the extensor carpi radialis brevis muscle to transfer to the anterior interosseous nerve, enhancing retrievement of hand-grasping movements from high median nerve or unrecoverable lower trunk of the brachial plexus injuries.
- Đăng nhập để gửi ý kiến