Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với toxoplasma gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với toxoplasma gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk năm 2020
Tác giả
Trần Vũ Hoà; Thân Trọng Quang; Lê Minh Hoài An; Nguyễn Trần Uyên Phương
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
25-31
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Để xác định tỷ lệ huyết thanh dương tính T. gondii cũng như một số yếu tố liên quan góp phần vào sự lưu hành của bệnh và đề xuất biện pháp phòng chống, nhóm tác giả thực hiện đề tài: "Tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến huyết thanh dương tính với Toxoplasma gondii ở phụ nữ tuổi sinh đẻ huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk năm 2020". Phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện tại Xã Yang Reh, Xã Ea Trul và Xã Hòa Sơn, Huyện Krông Bông, Tỉnh Đắk Lắk. Thời gian nghiên cứu từ tháng 01 năm 2020 đến tháng 07 năm 2020. Đối tượng nghiên cứu: 396 Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 16-49 tuổi đang sinh sống trên địa bàn nghiên cứu của huyện Krông Bông, Tỉnh Đắk Lắk. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả. Một mẫu máu 4 ml được thu thập từ mỗi người tham gia và các mẫu huyết thanh được kiểm tra sự hiện diện của các kháng thể IgG đặc hiệu của T.gondii bằng bằng xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán ELISA. Tất cả số liệu được phân tích bằng phần mềm Epidata 3.1, STATA 10.0. Kết quả: Trong tổng số 396 mẫu máu của đối tượng nghiên cứu có 53 mẫu có huyết thanh dương tính với T. gondii IgG, chiếm tỷ lệ 13,4%. Trong đó đối tượng tham gia nghiên cứu tại Xã Hòa Sơn tỷ lệ huyết thanh dương tính chiếm 4,3%, Xã Yang Reh 29,2% và Xã Ea Trul 19,2%. Kết quả điều tra nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm khá cao trong cộng đồng, đặc biệt là phự nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại điểm nghiên cứu. Đồng thời cho thấy tỷ lệ nhiễm T. gondii có mối liên liên đến nuôi mèo, tiếp xúc mèo, sử dụng nguồn nước không đảm bảo vệ sinh, nghề nghiệp buôn bán... Kết luận: Nguy cơ về nuôi mèo, tiếp xúc mèo, tình trạng vệ sinh ăn uống, tình trạng nghề nghiệp, được xem là các yếu tố nguy cơ lây nhiễm T.gondii.

Abstract

The study was conducted in Yang Reh, Ea Trul and Hoa Son areas belonged to Krong Bong, Dak Lak Province. Research was from January 2020 to July 2020. There were 396 women aged 16-49 years old in Krong Bong, Dak Lak province. Research method was using descriptive cross-sectional design. A 4 ml blood sample was collected from each participant and serum samples were tested for the presence of T.gondii-specific IgG antibodies by ELISA diagnostic serum assay. All data were analyzed by using Epidata 3.1, STATA 10.0 software. Results: In a total of 396 blood samples in this study, there were 53 samples with the positive results for T. gondii IgG, accounting for 13,4%. For participants in Hoa Son, Yang Reh and Ea Trul, the percentage of positive result were 4,3%%, 29,2% and 19,2%, respectively. The analyzed data showed that the infection rate was quite high in the community, especially women of reproductive age. Furthermore, the prevalence of T. gondii infection was related to raising cats, contacting cats, using unhygienic water, trade... Conclusion: Risks for feeding cat, contacting cats, sanitary conditions and occupational conditions were considered as risk factors for T.gondii infection.