Khảo sát giá trị của DBT khi chụp bổ sung vào FFDM làm tăng giá trị chẩn đoán ung thư vú ở những bệnh nhân có vú đặc, tổn thương dạng khối. Đối tượng và phương pháp: Dữ liệu lâm sàng và hình ảnh chụp từ hệ thống FFDM và DBT được hồi cứu từ tháng 9/2021 đến tháng 9/2022 thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. Hình ảnh thu nhận từ hai kỹ thuật chụp được phân tích và xếp loại theo Hệ thống dữ liệu và báo cáo hình ảnh vú (BI-RADS) của Hiệp hội hình ảnh học Hoa Kỳ (ACR) và so sánh sự thay đổi phân độ BI-RADS. Tính độ nhạy, độ đặc hiệu và các giá trị chẩn đoán của kỹ thuật. Tính chỉ số đồng thuận (Cohen’s Kappa) cho phân loại BI-RADS và các giá trị nghi ngờ chẩn đoán ung thư vú của hai phương pháp. Kết quả: DBT có độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị chẩn đoán dương và âm tính, độ chính xác lần lượt là 92,8%; 48,7%; 66,1% và 86,3%; 71,6%; cao hơn các giá trị tương ứng so với FFDM là 69,0%; 38,0%; 54,7% và 53,6%; 54,3%. Hai phương pháp chụp DBT và FFDM có mức độ phù hợp với chẩn đoán giải phẫu bệnh là khá trên DBT (Kappa = 0,61) và kém trên FFDM (Kappa = 0,15). Chỉ số Cohen’s Kappa đánh giá mức độ phù hợp trong phát hiện dấu hiệu tổn thương khối nghi ngờ trên DBT và FFDM: Khối hình dạng không đều Kappa = 0,68 (phù hợp khá); khối bờ tua gai Kappa = 0,23 (phù hợp thấp); khối đậm độ cao Kappa = 0,17 (phù hợp kém). Kết luận: Kỹ thuật chụp DBT có giá trị cao trong phát hiện và chẩn đoán các đặc điểm hình ảnh của tổn thương vú, cụ thể là nhóm phụ nữ có mô vú dày và tổn thương dạng khối được đánh giá tốt hơn so với FFDM. Việc bổ sung DBT vào FFDM giúp cải thiện cả độ nhạy, độ đặc hiệu và giá trị tiên đoán dương của kỹ thuật, góp phần nâng cao giá trị chẩn đoán UTV. Vì vậy đối với nhóm phụ nữ có mô vú dày và/hoặc phát hiện tổn thương khối ngay từ đầu, có thể cân nhắc chụp DBT thay cho FFDM ngay từ đầu, giúp giảm liều tia cho bệnh nhân.
Studying the value of DBT when used as an adjunct to FFDM enhances the diagnostic accuracy for breast cancer in patients with dense breasts and mass lesions. Method: Clinical data and images from FFDM and DBT systems were collected through a retrospective sampling method from September 2021 to September 2022 meeting the sampling criteria. Images obtained from two imaging techniques were analyzed and classified according to the Breast Imaging Reporting and Data System (BI-RADS) of the American College of Radiology (ACR) and compared the changes in BI-RADS categories. Assessing sensitivity, specificity, and diagnostic values of the techniques. Calculating Cohen’s Kappa coefficient for BI-RADS classification and suspicious values for breast cancer diagnosis of the two methods. Result: DBT shows higher sensitivity, specificity, positive and negative predictive values, and accuracy at 92.8%, 48.7%, 66.1%, and 86.3%, respectively, compared to FFDM at 69.0%, 38.0%, 54.7%, and 53.6%. Both DBT and FFDM imaging methods are moderately appropriate with anatomical diagnosis, DBT has moderate appropriateness (Kappa = 0.61), and FFDM with poor appropriateness (Kappa = 0.15). Cohen’s Kappa evaluates the appropriateness in detecting suspicious lesion signs on DBT and FFDM: irregular shape mass lesion - Kappa = 0.68 (moderate appropriateness); mass lesion with spiculated margin -Kappa = 0.23 (low appropriateness); high-density mass lesion - Kappa = 0.17 (poor appropriateness). Conclusion: DBT technique is highly valuable in detecting and diagnosing the imaging features of breast lesions, specifically in women with dense breast tissue and mass lesions, showing better assessment compared to FFDM. Adding DBT to FFDM improves both sensitivities, specificity, and positive predictive value of the technique, contributing to enhancing the diagnostic value of breast imaging. Therefore, for women with dense breast tissue and/or early detection of mass lesions, consider using DBT instead of FFDM from the beginning may help reduce radiation dose for patients.
- Đăng nhập để gửi ý kiến