Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Vai trò của chụp cộng hưởng từ vùng chậu trong xếp hạng bướu ung thư nội mạc tử cung trước phẫu thuật

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Vai trò của chụp cộng hưởng từ vùng chậu trong xếp hạng bướu ung thư nội mạc tử cung trước phẫu thuật
Tác giả
Đoàn Trọng Nghĩa; Trần Đặng Ngọc Linh; Nguyễn Văn Tiến; Tạ Thanh Liêu; Võ Tiến Tân Nhi; Trần Thị Kim Liên; Nguyễn Thị Cẩm Tú; Nguyễn Phạm Ngọc Châu
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
CD1
Trang bắt đầu
216-224
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Tiên lượng của ung thư nội mạc phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm: giai đoạn bệnh, độ sâu xâm lấn cơ, xâm lấn mô đệm kênh cổ tử cung, xâm lấn khoang lympho – mạch máu (LVSI), grad mô học và tình trạng di căn hạch. Chụp cộng hưởng từ (MRI) bụng chậu có tương phản từ là phương tiện có thể giúp chẩn đoán giai đoạn ung thư nội mạc tử cung trước phẫu thuật vì giúp đánh giá độ sâu xâm lấn cơ, xâm lấn mô đệm cổ tử cung và di căn hạch chậu. chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá độ chính xác của MRI trong việc xếp hạng bướu ung thư nội mạc tử cung trước phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi nghiên cứu 95 trường hợp ung thư nội mạc tử cung được điều trị tại khoa Ngoại phụ khoa – Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 12/2019 đến tháng 9/2022. Kết quả: Trường hợp có tuổi trung bình là 55,5 tuổi (27-85). Cộng hưởng từ có độ chính xác và giá trị tiên đoán dương cao trong xác định bướu đã xâm lấn cơ hay không, lần lượt là 91,6% và 94,2%. Giá trị tiên đoán dương trong xâm lấn cơ sâu ở bệnh nhân chưa mãn kinh khá cao, lên đến 81,8%. Tuy nhiên, cộng hưởng từ có giá trị tiên đoán dương trong xâm lấn cơ sâu ở bệnh nhân đã mãn kinh khá thấp, chỉ khoảng 50%. Đa phần bệnh nhân bị chẩn đoán quá mức. Trong chẩn đoán xâm lấn thanh mạc, cộng hưởng từ có giá trị tiên đoán âm rất cao (94,4%) nhưng giá trị tiên đoán dương khá thấp (chỉ khoảng 40%). Tương tự, cộng hưởng từ có giá trị tiên đoán âm trong xâm lấn mô đệm cổ tử cung cao (lên đến 89,2%) nhưng độ nhạy thấp (chỉ khoảng 47,1%). Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi có độ chính xác trong chẩn đoán xâm lấn cơ sâu thấp hơn so với các nghiên cứu khác do kết quả chụp cộng hưởng từ của nhiều nơi và chưa áp dụng việc đánh giá trọn bệnh phẩm một cách thường quy. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy MRI có thể dùng để loại trừ trước mổ các trường hợp cần cắt tử cung tận gốc di bướu lan mô đệm cổ tử cung do MRI có giá trị tiên đoán âm rất tốt.

Abstract

The prognosis of endometrial cancer depends on many factors, including: stage of disease, depth of myometrial invasion, parametrial invasion, lymphovascular space invasion (LVSI), histological grade and nodal status. Contrast-enhanced abdominal-pelvic magnetic resonance imaging (MRI) is a modality that can help diagnose the stage of endometrial cancer before surgery because it helps assess the depth of myometrial invasion, parametrial invasion and pelvic nodal metastasis. We conducted this study to evaluate the accuracy of MRI in staging endometrial cancer before surgery. Materials and methods: We studied 95 cases of endometrial cancer treated at the Department of Surgery 2 - Ho Chi Minh City Oncology Hospital from December 2019 to September 2022. Results: The mean age of the 95 cases was 55.5 years (27-85). MRI had high accuracy and positive predictive value in determining whether the tumor had invaded the myometrium or not, which were 91.6% and 94.2%, respectively. The positive predictive value in deep myometrial invasion in premenopausal patients was quite high, up to 81.8%. However, MRI had low positive predictive value in deep myometrial invasion in postmenopausal patients, only about 50%. Most patients were overdiagnosed. In diagnosing parametrial invasion, MRI had very high negative predictive value (94.4%) but low positive predictive value (only about 40%). Similarly, MRI had high negative predictive value in parametrial invasion (up to 89.2%) but low sensitivity (only about 47.1%). Conclusions: Our study had lower accuracy in diagnosing deep myometrial invasion than other studies due to the results of MRI from different hospitals and not applying the routine evaluation of the whole specimen. However, the study showed that MRI can be used to exclude preoperatively the cases that need radical hysterectomy due to cervical stromal invasion because MRI had very good negative predictive value.