Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Xác định giá trị của dấu hiệu siêu âm trong chẩn đoán rau cài răng lược ở thai phụ rau tiền đạo trung tâm có mổ đẻ cũ tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Xác định giá trị của dấu hiệu siêu âm trong chẩn đoán rau cài răng lược ở thai phụ rau tiền đạo trung tâm có mổ đẻ cũ tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội
Tác giả
Mai Trọng Hưng; Nguyễn Cảnh Chương
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
113-117
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Xác định giá trị dấu hiệu siêu âm trong chẩn đoán rau cài răng lược ở thai phụ rau tiền đạo trung tâm có mổ đẻ cũ. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả tiến cứu 32 bệnh nhân rau tiền đạo trung tâm có sẹo mổ lấy thai cũ tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội (từ tháng 01/2021 đến tháng 01/2022). Dấu hiệu siêu âm trong chẩn đoán rau cài răng lược được ghi nhận và so sánh với kết quả giải phẫu bệnh. Kết quả: Tuổi trung bình các thau phụ là 36,5 tuổi. Có 7 trường hợp chẩn đoán không có rau cài răng lược sau mổ. Trong 25 trường hợp rau cài răng lược, có 24 trường hợp có chẩn đoán trước mổ, 1 trường hợp chẩn đoán trước mổ không có rau cài răng lược nhưng lấy bệnh phẩm trả lời là rau cài răng lược. Dấu hiệu mất khoảng sáng sau bánh rau được ghi nhận nhiều nhất, chiếm 90,63%, dấu hiệu Lacunae (71,86%), tăng sinh mạch máu phúc mạc, bàng quang (68,75%). Dấu hiệu mất liên tục, mỏng đường phúc mạc bàng quang chiếm tỉ lệ ít nhất (37,5%). Kết luận: Nghiên cứu chỉ ra rằng 7 dấu hiệu mô tả trong siêu âm có ý nghĩa quan trọng trong chẩn đoán rau cài răng lược. Do đó, siêu âm là phương tiện có nhiều giá trị trong chẩn đoán, quản lý và theo dõi rau cài răng lược.

Abstract

Determine the value of ultrasound signs in diagnosing placenta accreta in pregnant women with central placenta previa who had a previous cesarean section at Hanoi Obstetrics and Gynecology Hospital. Methods: This prospective study included 32 patients with central placenta previa with old cesarean section scars at Department A4 of Hanoi Obstetrics and Gynecology Hospital (from January 2021 to January 2022). Ultrasound signs in diagnosing placenta accreta were recorded and compared with postoperative pathology results. Results: The average age of pregnant women with central placenta previa and old ceserean section scars was 36.5 years old. 7 cases were diagnosed with placenta accreta without pathology postoperative diagnosis. In 25 cases of placenta accreta, there were 24 cases with preoperative diagnosis, 1 case without preoperative diagnosis, but after surgery and taking specimens, the answer was placenta accreta. Signs of loss of retroplacental clear zone were recorded the most in the study, accounting for 90.63%, followed by Lacunae signs (71.86%) and hypervascularity of the uterovesical (68.75%). Bladder wall interruption accounted for the least proportion in the study (37.5%). Conclusion: Research shows that the 7 signs mentioned in ultrasound are important in diagnosing placenta accreta. Therefore, ultrasound is the first-line tool, with much value in diagnosing, managing and monitoring placenta accreta.