
Mô tả một số đặc điểm bó hồi đai ở bệnh nhân Alzheimer (AD) và nhóm người bình thường trên cộng hưởng từ sức căng khuếch tán (DTI). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang. Tái tạo hình ảnh đường dẫn truyền bó hồi đai ở 20 bệnh nhân Alzheimer người Việt Nam và 20 người bình thường (nhóm chứng : NC) trên DTI. Kết quả: Độ tuổi trung bình của nhóm AD và nhóm chứng lần lượt là 69,05±7,77 năm và 69,70±5,83 năm, khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,76). Tuổi khởi phát nhóm AD là 64,65±7,18 năm, điểm MMSE của nhóm AD là 12,20±7,35. Tỷ lệ nam/nữ của nhóm AD và nhóm chứng lần lượt là 8/12 và 9/11. Bó hồi đai phải giữa nhóm AD và nhóm chứng có trung bình các chỉ số số lượng sợi, chiều dài sợi, voxel, FA và ADC lần lượt là: 461,15±307,22 sợi và 268,45±132,09 sợi; 65,43±14,20 mm và 66,35±11,31 mm; 312,50±138,39 voxel và 238,25±69,27 voxel; 0,34±0,03 và 0,36±0,02; 0,76±0,10 và 0,77±0,07. Trong đó số lượng sợi và chỉ số voxel ở nhóm AD cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê, lần lượt: p=0,01 và p=0,04; chỉ số FA nhóm AD thấp hơn có ý nghĩa thống kê: p=0,00. Chiều dài sợi và ADC không có sự khác biệt (p>0,05). Bó hồi đai trái giữa nhóm AD và nhóm chứng có trung bình các chỉ số số lượng sợi, chiều dài sợi, voxel, FA và ADC lần lượt là: 506,90±287,29 sợi và 392,40±174,96 sợi; 71,91±17,58 mm và 75,57±9,64 mm; 349,55±131,10 voxel và 306,60±70,85 voxel; 0,35±0,03 và 0,39±0,02; 0,78±0,11 và 0,76±0,05. Trong đó số lượng sợi, chiều dài sợi, voxel và ADC ở hai nhóm không có sự khác biệt (p>0,05); FA nhóm AD thấp hơn có ý nghĩa thống kê: p=0,00. Kết luận: tái tạo bó hồi đai bằng DTI ở bệnh nhân Alzheimer người Việt Nam gợi ý rằng có thay đổi vi cấu trúc, mở ra hướng mới trong nghiên cứu tổn thương chất trắng bệnh nhân AD và các mặt bệnh khác.
To reconstruct Cingulum tract (CGT) in Vietnamese Alzheimer patients (AD) by using Diffusion tensor imaging (DTI). Subject and method: Cross-sectional study. We reconstructed the white matter (WH) fibers of CGT of 20 Vietnamese Alzheimer patients and 20 normal subjects (NS) by using DTI. Result: The mean (± SD) age of AD patient and NS was: 69,05±7,77 years and 69,70±5,83 years (no significant difference, p=0,76); the age of AD onset was: 64,65±7,18 years; MMSE score: 12,20±7,35; Male/female (AD/NS) was: 8/12 and 9/11. The mean (± SD) number and length of fibers, voxel, FA and ADC of the right CGT (AD and NS) were: 461,15±307,22 fibers and 268,45±132,09 fibers; 65,43±14,20 mm and 66,35±11,31 mm; 312,50±138,39 voxels and 238,25±69,27 voxels; 0,34±0,03 and 0,36±0,02; 0,76±0,10 and 0,77±0,07 (respectively). Of that, the number fibers and voxel of AD was significantly higher (p=0,01 and p=0,04, respectively), FA was significantly lower in AD (p=0,00). The length of fibers and ADC had no significant difference (p>0,05). The mean (± SD) number and length of fibers, voxel, FA and ADC of the left CGT (AD and NS) were: 506,90±287,29 fibers and 392,40±174,96 fibers; 71,91±17,58 mm and 75,57±9,64 mm; 349,55±131,10 voxels and 306,60±70,85 voxels; 0,35±0,03 and 0,39±0,02; 0,78±0,11 and 0,76±0,05 (respectively). Of that, the number and length of fibers, voxel and ADC had not significantly difference; FA of AD group had significantly lower (p=0,00). Conclusion: the result of reconstructing CGT by using DTI suggest that: microstructure changes in white matter integrity in Vietnamese AD patients. More comparative studies are needed.
- Đăng nhập để gửi ý kiến