Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm đau sau phẫu thuật thay van hai lá theo phương pháp ít xâm lấn và phương pháp kinh điển tại Bệnh viện Tim Hà Nội

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm đau sau phẫu thuật thay van hai lá theo phương pháp ít xâm lấn và phương pháp kinh điển tại Bệnh viện Tim Hà Nội
Tác giả
Phùng Thị Hải Anh, Đặng Quang Huy, Nguyễn Minh Ngọc, Lê Quang Thiện, Nguyễn Thị Hoàng Huyền, Ngô Thị Dương, Phan Thị Thu, Lưu Thị Nguyên Ngọc
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
Số Đặc biệt
Trang bắt đầu
254-261
ISSN
0866 - 7551
Tóm tắt

66 bệnh nhân phù hợp các tiêu chuẩn nghiên cứu, chia 2 nhóm phẫu thuật ít xâm lấn (n=23) và phẫu thuật kinh điển (n=43). Tuổi trung bình là 50,7 ± 9,3, nữ giới 78,8%, BMI 20,9 ± 2,7. 16 bệnh nhân (24,2%) được làm giảm đau cạnh sống (ESP) trước mổ, đều ở nhóm phẫu thuật kinh điển. Điểm VAS ở nhóm phẫu thuật ít xâm lấn vào ngày thứ 3, thứ 7 và 1 tháng sau mổ lần lượt là 7,7 ± 1,2; 5,2 ± 1,5; 0,9 ± 1,1; giá trị tương ứng trong nhóm phẫu thuật kinh điển là 6,6 ± 1,6; 3,8 ± 1,5; 1,7 ± 0,9. Nhóm bệnh nhân ESP có mức độ dùng thuốc giảm đau trong 2 ngày đầu thấp hơn với liều Morphin trong ngày thứ nhất và ngày thứ 2 trung bình là 0 và 2,3 ± 5,0 mg/kg so với các giá trị tương ứng ở nhóm phẫu thuật kinh điển không ESP là 19,7 ± 5,5 và 17,7 ± 7,1. Kết luận: Giảm đau sau mổ dường như không phải là một lợi thế của phẫu thuật ít xâm lấn, tuy nhiên thời gian đau sau mổ ngắn hơn so với phẫu thuật kinh điển. Kỹ thuật giảm đau cạnh sống có hiệu quả giảm đau tốt trong những thời điểm sớm sau phẫu thuật kinh điển.

Abstract

There were 66 patients in the study, divided into 2 group: 43 patient underwent conventional surgery and 23 patient underwent mini invasive surgery. Mean age was 50,7 ± 9,3, female was 78,8% and mean BMI was 20,9 ± 2,7. Erector spinae plane (ESP) block was performed on 16 patients (24,2%) of conventional surgery group. The VAS score at 3 days, 7 days , and 1 month after surgery was 7,7 ± 1,2; 5,2 ± 1,5; 0,9 ± 1,1 in sternotomy group and 6,6 ± 1,6; 3,8 ± 1,5; 1,7 ± 0,9 in mini invasive group, respectively. In patients with ESP block, mean dose of morphine administered in first two days was 0 and 2,3 ± 5,0 mg/kg comparing to the dose of 19,7 ± 5,5 và 17,7 ± 7,1 in sternotomy patients without ESP block. Conclusions: Postoperative pain reduction may not be an advantage of mini invasive mitral surrgery comparing to conventional surrgery, but the time for pain suffering in this group was shorter. ESP was an efficient method for early pain reduction after conventional surgery.