Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của bệnh nhân đang điều trị methadone tại thành phố Hồ Chí Minh

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của bệnh nhân đang điều trị methadone tại thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả
Lê Nữ Thanh Uyên; Lê Trần Minh Thư; Phạm Duy Anh
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
48-52
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Xác định tỷ lệ các đặc điểm dịch tễ học và đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân đang điều trị Methadone tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 450 bệnh nhân đang điều trị Methadone tại Thành phố Hồ Chí Minh. Để khái quát hoá các đặc điểm của bệnh nhân, phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên có hệ thống với khoảng cách mẫu là 2 đã được sử dụng để tuyển chọn bệnh nhân; dữ liệu thu thập bằng phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt với bộ câu hỏi soạn sẵn và dựa vào hồ sơ bệnh án. Kết quả: Trong số 450 bệnh nhân, nam giới chiếm đa số (92,0%) và tuổi trung bình 37,4 tuổi. Có 26,2% bệnh nhân hiện sống chung với người nghiện. Có 17,8% đối tượng cảm nhận kinh tế của mình thật sự có khó khăn chiếm 17,8%. Khoảng 2/3 bệnh nhân đang điều trị duy trì Methadone mắc các bệnh kèm theo (66,7%). Có 37,3% đang điều trị ARV, có khoảng 31,8% bệnh nhân mắc từ 2 loại bệnh trở lên. Tuổi bệnh nhân bắt đầu SDMT trung bình 20,1 tuổi, trong đó tuổi nhỏ nhất là 10 tuổi và cao nhất là 45 tuổi. Tỷ lệ bệnh nhân có kết quả xét nghiệm dương tính với ma tuý chiếm 17,3%. Liều Methadone trung bình hằng ngày là 126,8 mg (SD = 83.8, phạm vi: 5 – 430 mg). Khoảng 60% bệnh nhân có gặp tác dụng phụ liên quan đến Methadone. Kết luận: Thành phố Hồ Chí Minh là một vùng trọng điểm về ma túy, với số người nghiện có hồ sơ quản lí cao nhất cả nước, kéo theo đó là tỷ lệ lây nhiễm HIV cũng gia tăng theo. Cần tăng cường truyền thông giáo dục kiến thức về ma túy cho lứa tuổi trẻ vì lứa tuổi này thường tò mò, thích khám phá, thử thách nhưng thiếu kiến thức phòng vệ, thiếu bản lĩnh nên có thể khiến các em dễ dàng mắc vào cái bẫy của ma túy.

Abstract

Opioid dependence is a chronic and relapsing disorder that results from the long-term effects of drugs on the brain. Not all people who use opioids, long-term, become dependent because many risk and protective factors interact to determine the possibility of dependence. Objective: To identify the proportion of epidemiological and clinical characteristics among Methadone maintenance treatment patients in Ho Chi Minh City. Methods: A cross – sectional study was conducted in 450 MMT in Ho Chi Minh city. To cover a wide range of patient characteristics, systematic random sampling method with sample interval of 2 was used to recruit patients. Data collected by face-to-face interview with prepared questionnaires and medical records. Results: Among 450 patients in the analysis, most were male (92.0%) and the mean age was 37.4 years. There were one-fourth lived with a person who used drugs (26.2%) There were 17.8% of participants who feel that their economy is really difficult. About two-thirds of patients on Methadone maintenance treatment had comorbidities (66.7%). There were 37.3% patients on antiretroviral therapy and 31.8% of patients with 2 or more diseases. About two-thirds of participants initiated drug use at the age of 20 years or more, in which the youngest age was 10 years old and the highest age was 45 years old. The percentage of patients with positive drug test results accounted for 17.3%. The average daily methadone dose was 126.8 mg (SD = 83.8, range 5–430). Nearly 60% of patients had methadone-related side effects. Conclusion: Ho Chi Minh City was a key drug area, with the highest number of drug addicts in the country, leading to an increase in HIV infection proportion. It was necessary to strengthen the communication and education of drug knowledge for young people because this age group was often curious, live discovery and challenges but lacks defense knowledge and lack of bravery can make them easily fall into the trap of drugs.