Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân được chẩn đoán các trường hợp sót rau điều trị tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân được chẩn đoán các trường hợp sót rau điều trị tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Tác giả
Nguyễn Duy Hưng; Chu Bích Hà; Đỗ Tuấn Đạt
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
3
Trang bắt đầu
218-221
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân được chẩn đoán sót rau tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương trong năm 2020. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 150 bệnh nhân được chẩn đoán sót rau được điều trị tại Khoa sản nhiễm khuẩn – Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Kết quả: Sót rau thường gặp ở những trường hợp thai dưới 12 tuần (75,3%). Trong đó tỉ lệ cao nhất là những trường hợp sau hút 50,7% vẫn có 7,3% sau mổ đẻ. Thời gian từ khi thai ra đến khi chuẩn đoán sót rau trung bình 45,4 ngày trong đó thấp nhất là 2 ngày và cao nhất là 240 ngày. Triệu chứng lâm sàng rong huyết chiếm tỉ lệ cao nhất 68,7%, số không có triệu chứng chiếm tới 14%. Tỷ lệ bệnh nhân có lượng βhCG dương tính chiếm 80%. 98,7% bệnh nhân siêu âm có hình ảnh khối bất thường trong buồng tử cung. Hình ảnh khối giữa buồng tử cung và có mạch trong khối chiếm đa số tỷ lệ lần lượt là 81,8% và 80,4%. 11,5% trường hợp có hình ảnh khối lệch góc. Kết luận: Hai triệu chứng chính để chẩn đoán sót rau là rong huyết và siêu âm có khối trong buồng tử cung. Cần phải lưu ý đến nhóm bệnh nhân không triệu chứng lâm sàng chiếm 14%. Tỷ lệ sót rau sau mổ lấy thai là 7,3% còn cao so với tỷ lệ chung trên thế giới.

Abstract

To describe the clinical and paraclinical characteristics of patients diagnosed with retained placenta at the National Hospital of Obstetrics and Gynecology in 2020. Methods: A cross-sectional, prospective study. Results: Gestational age under 12 weeks accounted for 75.3%. The highest percentage is the cases after suction aspiration 50.7% and 7.3% after caesarean section. The average time from termination of pregnancy to hospital admission was 45.4 days, the lowest was 2 days and the highest was 240 days. Symptoms of bleeding accounted for the highest rate 68.7%, the number of asymptomatic accounted for 14%. The percentage of patients with βhCG level > 5 Ui/ml was 80%. Most of the patients with ultrasound showed an intrauterine mass (98.7%). The images of mid-uterine mass and vascularity in the mass was 81.8% and 80.4%. 11.5% of cases had mass in the corner of the uterus in ultrasound. Conclusion: Two main symptoms to diagnose placental retained are bleeding and ultrasound with a mass in the uterus. It should be noted that the group of patients without clinical symptoms was 14%. The rate of retained placenta after cesarean section is 7.3%, still high compared to the general rate in the world.