Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm tăng trưởng hệ thống sọ mặt của trẻ từ 7 đến 13 tuổi trên phim sọ nghiêng

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm tăng trưởng hệ thống sọ mặt của trẻ từ 7 đến 13 tuổi trên phim sọ nghiêng
Tác giả
Đống Thị Kim Uyên; Lê Hoàng Sơn
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
3
Trang bắt đầu
21-26
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Xác định đặc điểm tăng trưởng hệ thống sọ mặt của trẻ em Việt Nam trong giai đoạn từ 7 đến 13 tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu là 691 phim sọ nghiêng của 287 trẻ em thỏa điều kiện. Các phim sọ nghiêng được chụp với cùng một kỹ thuật bởi một kỹ thuật viên để hạn chế tối đa sự sai lệch do các yếu tố chủ quan. Các phim được vẽ lại trên giấy chuyên dụng của chỉnh hình, xác định các điểm chuẩn và đo đạc khoảng cách, góc độ bởi nghiên cứu viên. Các điểm chuẩn xác định bao gồm: điểm S (Sella turcia), điểm N (Nasion), điểm Ba (Basion), điểm ANS (Anterior nasal spine), điểm A, điểm B, điểm Gn (Gnathion), điểm Me (Menton) và điểm Go (Gonion). Từ các điểm chuẩn này, các nhóm biến số đại diện cho kích thước của các vùng thuộc hệ thống sọ mặt được đo đạc bao gồm: nền sọ, xương hàm trên, xương hàm dưới, chiều cao các tầng mặt. Các kết quả được xử lý thống kê với mức khác biệt có ý nghĩa là p < 0,05. Kết quả: Trong giai đoạn 7 đến 13 tuổi, các giá trị khoảng cách và góc độ đều có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê, ngoại trừ góc nền sọ Ba- S-N. Tỉ lệ chiều cao và chiều dài của các kích thước có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê theo một chiều hướng. Trong giai đoạn này, phức hợp sọ mặt có sự tăng trưởng cả ba chiều không gian. Trong đó, chiều dài xương hàm dưới và chiều cao tầng sau mặt là hai giá trị tăng nhiều nhất. Chiều dài nền sọ trước là giá trị ít có sự thay đổi nhất. Kết luận: Các thành phần của phức hợp sọ mặt đều có sự thay đổi kích thước đáng kể trong giai đoạn 7-13 tuổi. Tỉ lệ các thành phần cũng có sự thay đổi, cho thấy mỗi thành phần trong phức hợp sọ mặt có sự thay đổi hình dạng khuôn mặt.

Abstract

To determine the growth characteristics of the craniofacial complex in Vietnamese children aged 7–13 years. Methods: A total of 691 cephalometric radiographs were obtained from 287 children who met the study criteria. Cephalometric radiographs were taken by a single radiographic technician using one standard technique to limit variation. The radiographs were then drawn on a cephalometric tracing paper, anatomical landmarks were determined, and distances and angles were measured by a single researcher. The anatomical landmarks were the sella turcia (S), nasion (N), barium (Ba), anterior nasal spine (ANS), A and B, gnathion (Gn), menton (Me), and gonion (Go). Based on these points, the distances and angles represented for different areas of the craniofacial complex were measured, such as the skull base, maxilla, mandible, and facial height. Data were statistically analyzed at a significance level of p < 0.05. Results: The distances and angles significantly changed from 7 to 13 years of age, except for the Ba-S-N angle. The height to length ratio of the craniofacial complex was also significantly altered in a stable direction. During this period, the craniofacial complex grew in three dimensions. Among the patterns of the craniofacial complex, mandibular length and posterior facial height increased the most, whereas the length of the anterior skull base increased the least. Conclusion: Different patterns of the craniofacial complex were significantly grew in patients aged 7-13 years old. The ratio between the length and height of the patterns also increased or decreased, indicating changes in the facial shape.