Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá an toàn phẫu thuật nội soi có robot hỗ trợ cắt bàng quang tận gốc tạo hình bàng quang trực vị

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá an toàn phẫu thuật nội soi có robot hỗ trợ cắt bàng quang tận gốc tạo hình bàng quang trực vị
Tác giả
Phạm Hữu Đoàn; Vũ Lê Chuyên; Đỗ Vũ Phương; Dương Đăng Hiếu; Nguyễn Hoàng Nam
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1B
Trang bắt đầu
96-101
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc và tạo hình trực vị là một phẫu thuật phức tạp, ảnh hưởng không chỉ đến hệ thống tiết niệu sinh dục mà còn đến hệ thống tiêu hóa. Chúng tôi muốn áp dụng các tiêu chuẩn của thang điểm Clavien – Dindo (CDC) để đánh giá tính an toàn của phẫu thuật nội soi có robot hỗ trợ cắt bàng quang tận gốc và tạo hình trực vị bằng hồi tràng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành theo dõi các người bệnh đã thực hiện phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc và tạo hình bàng quang trực vị bằng phẫu thuật nội soi có robot hỗ trợ trong khoảng thời gian từ tháng 11/2020 đến tháng 10/2022 tại bệnh viện Bình Dân. Chúng tôi ghi nhận các biến chứng xảy ra trong vòng 90 ngày sau phẫu thuật và phân loại chúng theo hệ thống CDC. Kết quả: Trong tổng số 48 người bệnh, chúng tôi ghi nhận tổng cộng 52 biến chứng sau phẫu thuật, xuất hiện ở 23 người bệnh (47,9%). Trong số này, có 9 trường hợp biến chứng nặng (đạt mức ≥ 3 theo tiêu chuẩn CDC) xảy ra trên 8 người bệnh (16,6%). Các biến chứng phổ biến bao gồm: 21 trường hợp nhiễm khuẩn đường tiết niệu (43,8%), 5 trường hợp nhiễm trùng vết mổ (10,4%) và 12 trường hợp liệt ruột kéo dài (25,0%). Ngoài ra, chúng tôi cũng ghi nhận 3 trường hợp hẹp miệng nối niệu quản - bàng quang tân tạo (6,25%), 2 trường hợp rò bàng quang tân tạo (4,17%), và 1 trường hợp tắc ruột non (2,08%). Lượng máu mất trung bình là 335,6ml, thời gian phẫu thuật trung bình là 378 phút, và thời gian nằm viện trung bình là 6,4 ngày. Kết luận: Phần lớn các biến chứng sau phẫu thuật đều là biến chứng nhẹ theo CDC. Tuy nhiên, với tất cả các người bệnh đã thực hiện tạo hình bàng quang trực vị bằng ruột, chúng tôi khuyến nghị cần theo dõi sát, phát hiện sớm và xử lý kịp thời các biến chứng.

Abstract

Radical cystectomy with orthotopic neobladder reconstruction is a highly intricate surgical procedure, impacting both the urogenital and gastrointestinal systems. We conducted a prospective assessment of 90-day postoperative mortality and morbidity following robot-assisted radical cystectomy (RARC) using a standardized reporting approach (Clavien–Dindo classification). Methods: Our prospective analysis involved patients undergoing robot-assisted radical cystectomy with orthotopic neobladder reconstruction between November 2020 and October 2022 at Binh Dan Hospital. Postoperative complications within the 90-day period were meticulously documented and categorized based on the modified Clavien–Dindo classification. Results: Among the 48 patients studied, 52 postoperative complications were detected in 23 patients (47.9%). Of these incidents, 9 (17.3%) were categorized as high grade (Grade III or above) and manifested in 8 patients (16.6%). Common complications included urinary tract infections (43.8%), wound complications (10.4%), and paralytic ileus (25.0%). Furthermore, 3 out of 48 patients (6.25%) undergoing intestinal urinary diversion developed ureteroenteric stricture, 2 cases (4.17%) resulted in intestinal neobladder fistula, and 1 case (2.08%) presented gastrointestinal-bowel obstruction. The mean intraoperative blood loss was 335.6ml, mean operative time was 378 minutes, and mean hospital stay was 6.4 days. Conclusions: Most complications after surgery are low grade. However, for all patients who have undergone orthotopic neobladder reconstruction, we recommend closed monitoring, early detection of complications and timely treatment.