
Đánh giá MRD sau ASCT trong điều trị MM bằng MFC tại BV.TMHH. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca, hồi cứu với đối tượng là 14 bệnh nhân (BN) được chẩn đoán MM điều trị tại BV.TMHH từ 06/2020 đến 06/2022. Kết quả: Đánh giá đáp ứng sau 4 chu kì VCD (Velcade – Cyclophosphamide – Dexamethason) bằng MFC ghi nhận trước ASCT tỷ lệ BN đạt MRD âm tính chiếm 42,9%. Sau ASCT, số BN đạt MRD âm tính tăng lên chiếm 85,7%. Tỷ lệ BN đạt được đáp ứng VGPR sau 4 chu kì VCD là 21,4% và sau ASCT tỷ lệ này đạt được 50%. Ngoài ra, chúng tôi còn ghi nhận MFC còn cung cấp các dấu ấn tương quan với tiên lượng như CD27, CD28, CD81, CD117. Kết luận: Đánh giá MRD trên BN MM sau ASCT bằng MFC cho thấy MRD ở BN có ghép tốt hơn không ghép. Bên cạnh đó, MFC còn cung cấp các dấu ấn có vai trò tiên lượng trong MM mới chẩn đoán giúp định hướng cho quá trình điều trị.
To evaluate MRD after ASCT in the treatment of 14 MM patients with MFC at BTH. Results: Evaluation of response after 4 cycles of VCD (Velcade - Cyclophosphamide - Dexamethasone) by MFC recorded before ASCT, the proportion of patients with MRDnegative accounted for 42,9%. However, after ASCT, the number of patients with MRDnegative increased to 85,7%. Meanwhile, the rate of patients achieving VGPR after 4 cycles of VCD is 21,4% and after ASCT this rate changes into 50%. In addition, MFC also applied few prognostic markers as CD27, CD28, CD81, CD117. Conclusion: Evaluation of MRD in MM patients after ASCT with MFC showed that MRD in patients with transplant was better than without transplant. Besides, MFC also provides markers with prognostic role in newly diagnosed MM to help guide the treatment process.
- Đăng nhập để gửi ý kiến