
Đánh giá tác dụng không mong muốn trong và sau phẫu thuật của phong bế đám rối thần kinh cánh tay đường liên cơ bậc thang với phong bế dây thần kinh trên vai phối hợp thần kinh nách bằng ropivacaine 0,25%. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Tiến cứu có can thiệp, so sánh 60 bệnh nhân được gây tê vùng để phẫu thuật nội soi khớp vai chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: Nhóm 1: 30 bệnh nhân được tiêm 10 ml ropivacaine 0,25% vào thần kinh trên vai và 10 ml ropivacaine 0,25% vào thần kinh nách dưới hướng dẫn của siêu âm trước gây mê. Nhóm 2: 30 bệnh nhân được tiêm 20 ml ropivacaine 0,25% vào đám rối thần kinh cánh tay đường liên cơ bậc thang dưới hướng dân siêu âm trước gây mê. Kết quả: Cảm giác buồn nôn hoặc nôn sau phẫu thuật giảm dần qua các thời điểm nghiên cứu từ T0-T8. Tỷ lệ liệt hoành, khàn giọng sau phẫu thuật của nhóm phong bế đám rối thần kinh đường liên cơ bậc thang cao hơn nhóm phong bế thần kinh trên vai kết hợp thần kinh nách tương ứng là 33,3% so với 0%. và 36,7% so với 0% sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Không có bệnh nhân nào ở nhóm phong bế đám rối thần kinh liên cơ bậc thang vận động được cánh tay và ngón cái sau tiêm tê, chỉ có 5 bệnh nhân 16,7% có vận động được bàn tay, tình trạng tê bì cẳng bàn tay sau phẫu thuật kéo dài. Khả năng hồi phục cảm giác tê bì sau 24 giờ 36,7% sau 36 giờ là 10% và sau 48 giờ thì vẫn còn khoảng 10%. Trong khi nhóm phong bế thần kinh trên vai phối hợp với thần kinh nách vẫn có thể vận động và cảm giác cẳng tay, bàn tay ngón cái bình thường. Bệnh nhân có mức độ hài lòng cao ở cả 2 nhóm nghiên cứu. Tỉ lệ rất hài lòng ở nhóm 1 là 90% cao hơn ở nhóm 2 là 63,3% (p<0,05). Kết luận: Tỉ lệ liệt hoành và khàn giọng ở nhóm phong bế chọn lọc thần kinh trên vai phối hợp thần kinh nách thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm phong bế đám rối cánh tay đường liên cơ bậc thang. Trong nhóm 2, tỉ lệ tê bì sau phẫu thuật rất cao gây khó chịu cho bệnh nhân, trong khi tỉ lệ này ở nhóm 1 là 0%. Bệnh nhân có mức độ hài lòng cao ở cả 2 nhóm nghiên cứu.
To assess the adverse effects of brachial plexus nerve blocking at the interscalene line and suprascapular nerve combined with axillary nerve blocking with ropivacaine 0.25%. Method: Prospective intervention, comparing 60 patients receiving regional anesthesia for shoulder arthroscopy and randomly divided into 2 groups: Group 1: 30 patients receiving 10 ml ropivacaine to the supraclavicular nerve and 10 ml of 0.25% ropivacaine to the axillary nerve under ultrasound guidance pre-anesthesia. Group 2: 30 patients were injected with 20 ml of ropivacaine 0.25% into the brachial plexus at the interscalene line under ultrasound guidance pre-anesthesia. Results: The feeling of nausea or vomiting after surgery gradually decreased over the study time points from T0-T8.The rate of diaphragmatic paralysis and hoarseness after surgery of brachial plexus nerve blocking at the interscalene line was higher than that of the group with axillary nerve combined with axillary nerve blocking, respectively 33.3% compared with 0% and 36.7% compared to 0%, the difference was statistically significant with p<0.01. None of the patients in brachial plexus nerve blocking at the interscalene line group could move the arm and thumb after anaesthesia, only 5 patients (16.7%) could move the hand, and the state of numbness of forearm was prolonged after the surgery. Recovery of numbness after 24 hours 36.7%, after 36 hours is 10% more, and after 48 hours it is still about 10%. While the patients in supraclavicular nerve combined with the axillary nerve blocking group still able to move and feel the forearm, hand, thumb normally. Patients had a high level of satisfaction in both study groups. The rate of very satisfied patients in group 1 was 90%, higher than that in group 2 was 63.3% (p<0.05). Conclusion: The rate of diaphragmatic paralysis and hoarseness was significantly lower in the group with selective supraclavicular nerve combined with axillary nerve blocking compared with the brachial plexus blocking at the interscalene line. In group 2, the rate of postoperative numbness was very high causing discomfort to the patient, while this rate in group 1 was 0%. Patients had a high level of satisfaction in both study groups.
- Đăng nhập để gửi ý kiến