
Can thiệp nút mạch hóa chất qua đường động mạch quay đang là một hướng tiếp cận mới trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (UTBMTBG). Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ thành công, những lợi ích và biến chứng của can thiệp nút mạch hóa chất điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng đường động mạch quay so với đường động mạch đùi. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang hồi cứu. Từ 1/2019 đến 8/2021, tiến hành 197 thủ thuật can thiệp nút mạch hóa chất điều trị ung thư biểu mô tế bào cho 132 bệnh nhân (96 ca đường động mạch đùi và 97 ca đường động mạch quay). Kết quả: Tỉ lệ thành công của đường vào ĐMQ trong NMHC điều trị UTBMTBG tương đương đường vào ĐMĐ, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (100% và 99%; p=0,497). Tỉ lệ các biến chứng mạch máu tại chỗ của đường vào ĐMQ thấp hơn đường vào ĐMĐ nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thông kê (1% và 3,1%; p=0,368). Thời gian thủ thuật, thời gian chiếu tia, liều tia ở nhóm có đường vào ĐMQ đều thấp hơn nhóm có đường vào ĐMĐ nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Nút mạch hóa chất điều trị ung thư biểu mô tế bào gan bằng đường động mạch quay có tỉ lệ thành công, biến chứng cũng như các đặc điểm kỹ thuật tương đương đường vào động mạch đùi. Với những lợi ích và sự thoải mái cho bệnh nhân đã được chứng minh, đường vào động mạch quay hoàn toàn khả thi và có thể ứng dụng trong can thiệp nút mạch hóa chất điều trị ung thư biểu mô tế bào gan.
In recent years, transradial access (TRA) has emerged as a new approach for transcatheter arterial chemoembolization (TACE) in patients with hepatocellular carcinoma (HCC). Objectives: To determine procedure’s success rate and to compare the benefits and complications between transradial and transfemoral artery embolization for Hepatocellular Carcinoma. Methods: Cross-sectional study with a retrospective analysis. From January 2019 to August 2021, 197 transarterial embolization procedures were performed on 132 patients in Gia Dinh People’s Hospital. 96 of which were transfemoral and the other 97 other cases were transradial. Results: Sucess rate of transradial chemoembolization in HCC was similar to a transfemoral procedure, differences were not statistically significant (100% and 99%; p=0.497). Local vascular complication rate of radial access was lower than that of femoral access but was also statistically unsignificant (1% and 3.1%; p=0.368). Total procedure timing, irradiation time and radiation dose of a radial access were lower than that of a femoral access. But again, differences were not statistically significant. Conclusions: Transradial chemoembolization in HCC treatment has the same success rate, complication rate as well as technical characteristics as a transfemoral access procedure. With proven benefits and patient’s comfort, transradial access is feasible and can be applied in clinical practice of HCC chemoembolization.
- Đăng nhập để gửi ý kiến