
Đánh giá hiệu quả neo chặn và kiểm soát chiều đứng trên bệnh nhân sai khớp cắn loại II có chỉ định nhổ răng hàm nhỏ trên ba nhóm bệnh nhân góc hàm đóng, góc hàm mở và góc hàm trung bình. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả dựa trên phim sọ nghiêng trước và sau điều trị của 69 bệnh nhân (15 nam, 54 nữ) sai khớp cắn loại II xương có nhổ răng hàm nhỏ tại Khoa Nắn chỉnh của Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội đến tháng 09/2022. Kết quả: Tuổi trung bình là 24,5, nhóm góc hàm đóng 12 bệnh nhân, nhóm góc hàm mở 27 bệnh nhân, nhóm góc hàm trung bình 30 bệnh nhân, đặc điểm trước điều trị của ba nhóm góc hàm tương tự nhau khác nhau chủ yếu ở chiều đứng khuôn mặt qua các chỉ số góc xương hàm dưới và nền sọ (nhóm góc hàm đóng 25,17° ± 2,65°, nhóm góc hàm mở: 40,22° ± 2,24°, nhóm góc hàm trung bình: 33,92 ± 2,14°). Hiệu quả neo chặn trên ba nhóm góc hàm tương tự nhau răng hàm lớn thứ nhất hàm trên và hàm dưới di gần ít và không có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Sau điều trị, trên bệnh nhân góc hàm đóng GoGnSN tăng 2,17° ± 2,75°, nhóm góc hàm mở GoGnSN giảm -1,05° ± 1,61°, nhóm góc hàm trung bình GoGnSN ít thay đổi. Kết luận: Miniimplant có hiệu quả tốt tạo neo chặn tối đa trong các trường hợp nhổ răng điều trị sai khớp cắn loại II. Miniimplant còn có khả năng kiểm soát chiều đứng qua kiểm soát trục dọc của răng hàm lớn và răng cửa làm xoay xương hàm dưới và thay đổi chiều cao tầng mặt dưới (với nhóm góc hàm đóng răng hàm lớn được làm trồi, răng cửa được đánh lún GoGnSn tăng, ANS-Me tăng với nhóm góc hàm mở răng hàm lớn được đánh lún, răng cửa được làm trồi, GoGnSN giảm, ANS-Me giảm, với nhóm góc hàm trung bình vị trí răng hàm lớn và răng cửa hầu như ít thay đổi và góc hàm dưới và chiều cao tầng mặt dưới hầu như không thay đổi sau điều trị.
To evaluate the effects of anchorage and control vertical facial class II malocclusion skeletal with extraction premolars on 3 groups: Hyperdivergent, normodivergent, hypodivergent. Subiect and method: A descriptive study by evaluate pre-treatment and post-treatment cephalometric radiography of 69 class II malocclusion skeletal with extraction premolars patients (15 male, 54 female), at Department of Orthodontics of Ha Noi Central Odonto-Stomatology Hospital to September 2022 were recuited. Result: The average of age was 24.5 years. Hypodivergent group had 12 patients, hyperdivergent group had 27 patients, normodivergent group had 30 patients. Clinical characteristics of 3 groups almost were similar except that angle between mandibular related cranial base (hypodivergent group 25.17° ± 2.65°, hyperdivergent group 40.22° ± 2.24°, normodivergent group 33.92° ± 2.14°). The effects of maximum anchorage in 3 group were the same so the first molar of maxillary were mesially minimum and no significant differences with p<0.05. Post-treatment, hypodivergent group had GoGnSN increased 2.17° ± 2.75°, hyperdivergent GoGnSN decreased -1.05° ± 1.61°, normodivergent GoGnSN change a little. Conclusion: Miniimplant had good effect to make maximum anchorage in extracted premolars treated class II maloclusion skeletal cases. Miniimplant had controlled vertical face by adjusting the vertical positions of the molars and the incisors made rotation mandibular and changed lower facial height (with hypodivergent group the molars were emergented, incisors were intrusived so GoGnSn increased, ANS-Me increased; with hyperdivergent group the molars were intrusived and incisors were uprighted so GoGnSN decreased, ANS-Me decreased, with normodivergent group the vertical positions of the molars and the incisors changed a litte, and GoGnSN ,ANS-Me had no significant differences were observed in the pre-treatment and the posttreatment skeletal measurements.
- Đăng nhập để gửi ý kiến