Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá hiệu quả ứng dụng dùng ống nội soi mềm pusen trong đặt nội khí quản 2 nòng

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá hiệu quả ứng dụng dùng ống nội soi mềm pusen trong đặt nội khí quản 2 nòng
Tác giả
Nguyễn Thanh Xuân; Nguyễn Trung Hậu; Lê Viết Nguyên Khôi; Nguyễn Thị Thanh Loan; Phạm Thị DIễm Hằng; Trần Trung Hiếu
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
87
Trang bắt đầu
96-102
ISSN
2354-1024
Tóm tắt

Nghiên cứu mô tả tiến cứu có so sánh, được thực hiện tại bệnh viện Trung Ương Huế. Tổng cộng có 60 bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên chia thành 2 nhóm là nhóm M (n = 30) và nhóm P (n = 30). Mục tiêu chính đánh giá khả năng ứng dụng sử dụng ống nội soi mềm PUSEN trong đặt NKQ 2 nòng. Mục tiêu thứ 2 khảo sát các biến chứng có thể có xảy ra của phương pháp này. Kết quả: Không có sự khác biệt trong việc đặt NKQ dễ hơn ở cả 2 nhóm, tuy nhiên thời gian xác định vị trí chính xác của ống NKQ 2 nòng ở nhóm P ngắn hơn so với nhóm M (61s và 150s). Bên cạnh đó, độ lệch vị trí ống của nhóm P cũng ít hơn so với nhóm M. Kết quả cũng cho thấy phổi được cách ly và sự hài lòng của PTV ở nhóm P cũng vượt trội hơn so với nhóm M. Kết luận: Chúng tôi nhận thấy đây là 1 phương pháp cải tiến có hiệu quả tốt tương tự với ống nội soi khí phế quản trong việc đặt và kiểm tra ống nội khí quản 2 nòng sau khi đặt. Đồng thời với giá thành rẻ, dễ sử dụng có thể ứng dụng được ở nhiều bệnh viện chưa có điều kiện trang bị ống nội soi mềm tại phòng mổ.

Abstract

This is a randomized controlled comparative study performed at HUE central hospital. A total of 60 patients were enrolled and randomly assigned to either a c-DLT (n = 30) or PUSEN (n = 30). Our main objective was to evaluate the possibility of using the PUSEN tube in the intubation of a double - lumen intubation and to investigate possible complications. Results: There was no difference in the ease of intubation, the time to correct tube placement was significantly faster using PUSEN (61 vs. 150 s). Additionally, the incidence of tube malposition was significantly reduced in the P group. Better lung isolation and happier surgeons were found in group P compared to group M. Conclussion: We found this to be an improved method with similar efficacy to the bronchoscope in placing and examining the double - lumen endotracheal tube after placement. At the same time, with low cost and ease of use, it can be applied in many hospitals that do not have the conditions to equip a flexible endoscope in the operating room.